Đường xưa lối cũ

Tôi qua định cư ở nước Mỹ đã gần 31 năm, và xa Quảng Trị trên 34 năm.     Năm 1972, sau trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa” là thời gian tôi phải rời xa Quảng trị.  Sinh ra và lớn lên ở một thành phố nhỏ và hiền hòa và thơ mộng  như Quảng trị, trong suốt 25 năm, dù có đi đó đi đây vì công việc sinh  nhai hoặc đi tu nghiệp, đi học hè xa nhà… nhưng chưa bao giờ nghĩ đến  chuyện phải xa Quảng trị vĩnh viễn… Thế mà từ ngay rời xa đến nay đã gần 40 năm. Có ai muốn xa quê hương đâu! Đúng là chuyện khó ngờ nổi mà có  thật, không chỉ cho riêng mình tôi mà còn xẩy đến cho biết bao người  khác.     Bài viết nầy tội lấy tựa đề là “Đường xưa lối cũ,” coi như tôi tạm chôm tựa đề bản nhạc của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ(hình phải)để nói lên những kỷ niệm về tình  xưa học trò.

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người đồng hương Quảng trị, quê  quán làng Bích khê, huyện Triệu phong, tỉnh Quảng trị, ông đến định cư ở Mỹ trước tôi có lẽ vào khoảng năm 1975. Ông sống ở thành phố Glendale  gần nhà tôi, ngoài những lần sinh hoạt hôị ái hữu đồng hương Quảng trị, chúng tôi thừơng gặp nhau tâm sự vì ông là thành viên trong ban cố vấn  hội Ái Hữu Quảng Trị nam Cali.    Trong hội, Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người mà tôi rất kính trọng. Ông là người nghệ sĩ đã thành danh trong nền âm nhạc Việt Nam,và đã để lại cho hậu  thế nhiều bản nhạc giá trị, hầu như mọi thế hệ điều biết về người nhạc  sĩ tài ba nầy. Tấm lòng vì quê hương của ông không chỉ thể hiện trong  những sáng tác, mà còn trong cả đời sống. Ông luôn luôn tự hào là người  sinh ra và lớn lên ở Quảng trị,  và luôn luôn hết lòng với sinh hoạt  chung trong hội.  Rất tiếc nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã vĩnh viễn ra đi năm  2002.  Ngày tiễn đưa nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ về nơi an nghỉ nghìn thu, tôi là người đọc điếu văn trước linh cữu ông và cũng là người đại diện bà  con đồng hương Quảng trị tại hải ngọai đến vĩnh biệt lần cuối để tỏ lòng kính mến và thương tiếc ông.

Trở lại với quãng đời thơ ấu tại Quảng Trị, tôi học tại trường Nam tiểu học Quảng trị và là một trong số những học sinh giỏi nhất trường. Sau này,  qua Mỹ tôi may mắn gặp cô giáo Nguyễn Thi Hồng Lựu là giáo viên dạy tôi  năm lớp nhất. Học trò và cô giáo gặp nhau mừng mừng tủi tủi nhắc lại  chuyện xưa với biết bao kỷ niệm.  Nhờ học hành chu đáo ở tiểu học nên  tôi thi đậu vào trường trung học Nguyễn Hoàng một cách dễ dàng, có thể nói là đậu bình thứ (càng cua). Tôi được gia đình khen thưởng và cho đi  Saigon chơi một tháng trước khi vào nhập học.

Trường Nguyễn Hoàng, theo tôi nhớ, nhập học vào khoảng trung tuần tháng 9, Hồi đó có 5 lớp đệ thất vì trường nhận vào trên 200 học sinh, qúa nhiều so  với mấy năm trước. Khi nhập học, tôi được nhét váo ban A, anh văn, lớp đệ thất (không biết đây là bị hay được đây) vì vào lớp nầy gái nhiều hơn trai…tôi bị lạc giữa mê hồn trận! Tôi cứ tưởng là mình hên vì sẽ học  tranh đua với mấy nữ tài tử này thì mình thắng là cái chắc, nhưng than  ôi, kết quả là học ít mà chơi nhiều!

Tôi đã đồng hành với lớp đệ thất A-1 nầy cho đến hết năm đệ tứ, thì chuyển  qua ban C lớp đệ tam. Bốn năm ngồi cùng lớp có biết bao  bạn học và kỷ niệm vui buồn. Tôi vẫn nhớ, trước hết là học sinh bên nữ gồm có: Hồ Thị Sen (An đôn), Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thi Thung, Nguyễn Thị Thới, Trần Thị Kim Thược, Thanh Hương, Nguyễn thị Huế, Thu Vang, Phan Thị Hạnh, Nguyễn thị Bích, Hùynh Thi Hương, Nguyễn thị Thương A, Nguyễn Thị Thương B,  Nguyễn thị Bích Ái, Nguyễn thị Trúc, Nguyễn Thị Đóa và nhiều nữa, nhiều  nữa. Ôi chao! mấy cô nầy toàn là người đẹp của trường Nguyễn Hoàng, cứ  đến giờ ra chơi là mấy học sinh lớn tuổi thuộc lớp đàn anh lượn qua lượn lại chung quanh lớp tôi thấy mà chóng mặt,  còn cùng lớp thì có người  thầm yêu trộm nhớ:

Quang Trung đó con đường xưa hò hẹn 
Giờ còn đâu những kỷ niệm ngày xưa
Hàng cây gìa nắng đổ bóng lưa thưa
Chiều tan lớp những lứa đôi thả bộ
Tình đơn phương nên ngại ngùng chẳng tỏ 
Ôm yêu thương chôn thật chặt vào lòng
Người vô tình chẳng thấu nỗi nhớ mong
Nào đâu biết cũng có ngày ly biệt.

(Bài thơ học trò trên đây tôi “chôm” được của một đồng môn, xin trích lại để cùng nhớ một thời).    Về phía các nam sinh trong lớp tôi, đặc biệt có 2 người đã có vợ mà vẫn  còn đi học đó là anh Nguyễn Phũng và Văn Tôn. Sau đây là các nam tài tử trong lớp mà tôi còn nhớ được, đứng đầu là tôi: Nguyễn Quang, Phan Văn  Phi, Trần Bích, Lê Thọ Loan, Nguyễn Thắng, Nguyễn Hạnh, Nguyễn Văn Phụ, Lê Viết Sơn, Nguyễn Viết Cư, Phan văn Trà, Nguyễn Văn Nậu, Ngô Tẫn,  Nguyễn Tý (chuột), Hoàng Xuân Phong, Lê Hiệt, Lê Đạm, Lê Bá Thí, Nguyễn  Phiến, Hoàng Phiến, Đỗ Xuân Đức, Trương Vinh, Lê Văn Phong, Văn Chương,  Cao Bích Quốc Huy,  những bạn sau nầy đã qua đời: Thái Tiên Trạch, Lê  Qúy Kỳ, Lê đình Hân, Nguyễn Trí Trâm, Lê Tất Bãn, Phan Tôn, Nguyễn Hữu Động, Phan Chánh Phúc, Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Thị Vân (vợ của anh Phan  Bá Ân).Cũng nhân đây tôi xin thay mặt các bạn xin thắp một nén hương  lòng tưởng nhớ đến vong linh của các anh chị đồng môn vắn số đi trước  chúng ta.

Sau nầy khi chuyển qua lớp đệ tam và đệ nhị C Anh văn, tội lại được quen  thêm một số bạn nữa đó là Hoàng Thị Hồng Diễu, Đoàn Đức, Đỗ Tư Nghĩa,  Thái Văn Thạch, Lê Mậu Minh, Nguyễn Văn Thơ, Lý Vinh, Phan Ngọc Bích và  Hồ Sĩ Mừng, Nguyễn Đăng Trúc, Trần Xuân Trường.    Thỉnh thoảng tôi cũng có đọc được những bài viết của các bạn Đổ Tư Nghĩa, Lê  Mậu Minh, Thái Văn Thạch trên cuốn sách nhiều tập Nguyễn Hoàng Chân Dung và Kỹ Niệm xuất bản tại Việt Nam do cô Võ Thị Quỳnh soạn thảo và gởi  qua Mỹ… nhờ vậy chúng tôi mới biết được phần nào sự sinh hoạt của các  bạn cùng lớp ở Việt Nam.

Năm tôi học lớp đệ ngũ có một kỷ niệm về tuổi học trò hoang nghịch mà tôi không bao giờ quên được, như sau:    Một buổi sáng đẹp trời, trống trường vừa đổ, anh chị em vào lớp chờ quý  thầy đến giảng bài, hôm ấy là giờ Pháp văn phụ hệ số 2 của thầy Nguyễn  Ích Xuân. Nhìn ra cửa sổ thấy thầy đang tiến đến, anh trưởng lớp hô cả lớp đứng dậy, bất chợt anh Nguyễn Văn Nậu vui tính phán lên “Ngài đến!  Ngài đến” thế mà thầy Xuân nghe được…Khi đó thầy vào lớp với một vẽ mặt  rất nghiêm nghị, thầy hỏi trò náo mới nói “ngài đến, ngái đến” xin đứng  ra cho biết tên! Cã lớp không ai trả lới và vẫn đứng yên tại chỗ, thầy  nói nếu không ai nhận thì cả lớp phải đứng nghiêm như vậy cho đến khi có người nhận. Khoảng 15 phút sau, trò nầy nhìn trò kia, cuối cùng anh  Nguyễn Văn Nậu đứng ra nhận tội mình đã nói…Có lẽ vì thầy Xuân nóng tính và cũng vì bắt cả lớp phải đứng chờ qúa lâu thầy tát anh Nậu một bạt  tai qúa mạnh, anh Nậu bị văng vào tường, nhưng rồi cũng lồm cồm đứng dậy và thầy đã đuổi anh Nậu ra khỏi lớp trong 2 giờ pháp văn đó. Đối với  tôi thầy Xuân rất nóng tính và nghiêm nghi, tuy nhiên thầy rất tốt bụng, thầy luôn luôn cố gắng dạy giỗ học sinh thành người tốt.

Qủa đất xoay tròn và nhỏ bé qúa! Năm 1980 khi tôi đến định cư tại Mỹ cũng  tại tiểu bang California nầy, tình cờ đang đi tìm học nghề và học thêm  anh văn thì tôi được gặp lại thầy Nguyễn ích Xuân, thầy đang làm  Superviser tại trường huấn nghệ và giúp việc làm, trường tên là Willlow, thuộc thành phố City of Industy, tiểu bang California. Thời buổi vận  nước thay đổi đã đưa đẩy cho thầy trò tôi gặp nhau trên xứ lạ quê người, thầy trò ôm nhau mừng mừng tủi tủi…Sau đó thầy mời tôi về nhà chơi. Nhà thầy ở tận dưới thành phố Pomona, gần phi trường Ontario. It hôm sau  tôi đến thăm thầy tại nhà, nhà thầy nhỏ và sơn màu vàng mà tôi cứ ngở là chùa Việt Nam mới mở ở Pomona, thầy cho biết các cháu còn nhỏ và đi học ở trường đại học gần nhà Mountain Santa Antonio College nên ở tạm nơi  nầy, và mai mốt các cháu ra trường thầy cô sẽ di chuyển về Santa Ana  city, Vậy mà thật, không bao lâu thầy cô chuyển về mua căn nhà thật đẹp  và rông lớn ở Huntington Beach vì đã có cháu ra trường BS. (Nguyễn Minh  Tuấn).    Thầy mời tôi ăn cơm trưa và kễ chuyện làm ăn, chuyện kỹ niệm về ngôi trường  củ Nguyễn Hoàng mà thầy đã dạy và làm giám thị trên 15 năm, cuối cùng  thầy khuyên tôi rằng “nếu có vốn liếng sinh ngữ anh văn như Quang, thì  thầy khuyên nên đi vào ngành Marketing của thị trường Mỹ sớm ngày nào  hay ngày đó vì nghành nầy sẽ dễ tiến thân và được ăn trên ngồi trước  thiên hạ”.    Nghe lời thầy khuyên tôi vào học nghành Business trường Citrus College  Asuza, và xin vào làm việc cho một hãng Mỹ sản suất vật liệu in ấn và  sau đó tôi trở thành chuyên viên marketing cho hãng nầy trên 20 năm cho đến hôm nay và cuộc sống tương đối khá ổn định. Thế rồi thời gian qua  nhanh, thầy Xuân bi tai biến mạch máu não.     Vào khoảng giữa năm 2000, thầy phải ngồi xe lăn, nói năng rất khó khăn… thời gian nầy tôi ghé thăm thầy tại nhà ở TP. Huntington Beach. Vợ thầy  là bà Tôn Nữ Hương Cần, một tay chăm lo cho thầy từ miếng ăn cho đến  giấc ngũ, tắm rửa vân vân… Thật khỗ cho cô, các con phải đi học xa, thầy Xuân lại khó tính, trước đây khi còn đi dạy học thầy khó tính và nghiêm nghị với học trò bao nhiêu thì nay bệnh hoạn thầy lại khó tính gấp mười lần…    Câu chuyện về thầy Xuân vẫn  chưa hết, cho đến ngày 9 tháng 9 năm 2007 tôi được tin thầy Xuân qua đời. Đám tang của thầy tôi là người đại diện đồng hương Quảng trị và cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng đọc điếu văn chia  buồn cùng tang quyến. Trong điếu văn phân ưu, tôi cũng không quên tri ân thầy đã có công dạy giỗ tôi nên người hữu dụng cho xã hội, và đăc biệt  là thầy cô luôn luôn hỗ trợ chương trình khuyến học dành cho các em học  sinh nghèo và hiếu học tại tỉnh Quảng trị, mặc dầu thầy cô không phãi là con dân Quảng trị, thầy cô đều người sinh đẻ ở Huế và đỗi ra làm việc  tại trường Nguyễn Hoàng, tỉnh Quảng trị. Đó là lý do tôi rất mến và tri  ân thầy cô.

Vào khoảng cuối tháng 5 năm 2012, tôi có đi dự đại hội đồng hương Quảng trị được tỗ chức tại Atlanta thuộc tiểu bang Georgia có gặp một số bạn bè  cùng lớp học, chúng tôi mừng rỡ khi gặp lại nhau, đó là các bạn Nguyễn  Thị Hà (Long hà), Lý Văn Thanh, Lê Đạm và Hồ Dân Thính, Tội nhất là Hồ Dân Thính vì khi vừa đến Mỹ theo diện HO thì Thính là một chàng trai  phong độ, Thính có tài hát hay và chơi đàn rất giỏi nhưng mới cách đây  khoảng 5 năm, Thính đã bị tai biến mạch máu não, tay trái bị liệt và  miệng không nói rõ tiếng  đuợc, chỉ nói ú ớ và ra dấu bằng tay. Gặp  Thính tôi mừng ra nước mắt, một thời trai phong sương, nay là kẻ tật  nguyền.     Bạn Lý Văn Thanh thì làm ăn khá phát đạt có trong tay 2,3 tiệm Nails ở tiểu bang Georgia. Bạn Lê Đạm có cuộc sống hạnh phúc vì con cái đã thành tài ở Boston. Bạn nữ Nguyễn Thị Hà vẫn còn nét đẹp thời xưa, hồi Hà còn đi  học đệ nhất cấp, nàng có dáng dấp một ma sơ hiền từ, mặt nàng tựa tựa  như tượng mẹ Maria, và bây giờ dù tuổi tác thay đổi, nét đẹp đó vẫn còn  phảng phất.  Hà hiện sống hạnh phúc với chồng con ở Washington DC. Gặp  lại nhau sau hơn 45 năm, chúng tôi mừng lắm, tôi mời vợ chồng Hà đi ăn  cơm, nhắc chuyện đường xưa lối cũ và cùng nhau gợi lại biết bao kỷ niệm  thời xưa của trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng trị.

Hôm nay ghi lại những kỷ niệm vui buồn thời thơ ấu, tôi không thể quên được những góc phố, những con đường như đường Quang Trung chạy từ trường  Nguyễn Hoàng về phố, đường Trần Hưng Đạo là phố chính chạy từ ga xe lửa  về thẳng thôn đệ tứ, đường Trần Cao Vân, Gia Long chạy dọc theo sông  Thạch Hãn với những hàng liễu rủ thơ mộng.     Mới đó mà bao nhiêu năm rồi. Giờ đây, tuổi đã lục tuần,  tôi đang ở môt  phương trời trên đất Mỹ và đang mung lung hoài tưởng vu vơ, miệng thầm  hát bản nhạc “Đường xưa lối cũ” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với hy vọng sẽ vơi đi nỗi buồn nhớ quê hương và đễ kết thúc bài viết này.

Nguyễn Quang

@yahoo.blog

This entry was posted in Truyện Ngắn, Văn Học and tagged . Bookmark the permalink.

Comments are closed.