Sau Cộng sản, sẽ có tự do dân chủ ?
Svetlana Alexievitch, tác giả chiếm giải Médicis-Essai 2013, trong một cuôc phỏng vấn dành cho tập san Philosophie, số Đặc biệt (1), nói “chúng tôi tưởng tự do nằm sau cửa sổ, muốn có, chỉ việc dẹp chế độ Cộng Sản. Khi chúng tôi ngồi thảo luận với nhau trong phòng ăn, chúng tôi nhìn sự việc như vậy. Những người Cộng sản đã ra đi dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên, không hề chống cự. Chỉ sau này, chúng tôi mới hiểu họ chỉ cần hoạt động ngầm cũng đủ để trở lại nắm quyền.’’
Bà Alexievitch, một nhà văn có cái nhìn sắc bén, là tác giả của nhiều cuốn sách về xã hội hậu Cộng sản ở Nga (2) mà những người tranh đấu cho dân chủ ở Việt Nam nên đọc, để tránh khỏi cái bi kịch dã tràng, bao nhiêu hy sinh, tù đầy mà cuối cùng dân chủ vẫn chỉ là một ảo tưởng.
“Chúng tôi đã có ảo tưởng về một dân tộc chống Cộng, khao khát tự do, dân chủ. Điều đó chỉ có trong đầu chúng tôi (giới trí thức). Khi tự do rơi xuống đầu dân tộc đó, những năm 1990, họ không đổ xô tìm đọc Soljenitsyne hay tìm hiểu sự thực về goulag như chúng tôi tưởng tượng. Họ muốn, trước hết, sống và tiêu thụ. Một số người, mà chúng tôi không nghĩ tới, đã lợi dụng, bám vào trào lưu này đẻ leo lên cầm quyền, như Loukachenko ở Biélorussie năm 1994 hay Poutine ở Nga năm 2000. Tóm lại, chúng tôi đã hoàn toàn không chuẩn bị cho đời sống thực tế. Bởi vì dân chúng không muốn kinh tế tự do (libéralisme). Hãng xưởng đóng cửa, tình trạng thất nghiệp khiến chúng tôi, những người trí thức tự do, đã rất sớm trở thành thiểu số. Hơn nữa, chúng tôi không có chương trình hành động gì cụ thể, ngoài chuyện đẩy Cộng Sản ra khỏi chính quyền. Chúng tôi nghĩ chỉ việc dẹp CS là một bảo đảm cho tự do. Chúng tôi không có một kinh nghiệm gì trong việc xây dựng một xã hội bình thường ; chúng tôi chỉ có kinh nghiệm bạo lực .’’
Svetlana Alexievitch giải thích tại sao ngày nay vẫn còn những người Nga tưởng nhớ chế độ Cộng sản : Khi một nhóm chính trị và kinh tài cướp đoạt, vơ vét hết tài nguyên của đất nước, dân chúng trở thành tay trắng, không nghề nghiệp, không tương lai, họ mơ tưởng trở lại chế độ bao cấp của Cộng sản. Nhất là từ những năm 1990, người ta không còn bị gởi đi goulag, không còn những vụ đàn áp đẫm máu, và đa số dân Nga sống trong xã hội tương đối bình đẳng- tất cả đều nghèo như nhau-lối sống đó thích hợp với nhiều người Nga.
Theo Alievitch, vài năm sau khi chế độ CS bị lật đổ, người Cộng Sản có thể trở lại cầm quyền nếu họ muốn. Trong cuộc bầu cử 1996, bà tin rằng đã có thoả hiệp giữa Eltsine với những người Cộng Sản. CS có thể thắng cử nếu họ muốn, vì họ vẫn chiếm đa số cử tri. Nhưng họ không muốn công khai nắm chính quyền một lần nữa, họ lựa chọn đứng đằng sau đẻ giật dây và trên thực tế vẫn nắm vận mệnh nước Nga. Đó là một chế độ Công sản “giả dạng thường dân”, communisme de seconde main, đề tài của cuốn sách La fin de l’homme rouge (3) của Alievtch. Người Cộng sản không mặc áo đỏ nữa, nhưng vẫn nắm quyền.
Thực trạng nước Nga cho thấy những quan sát của Svetlana Alievitch không sai sự thực. Quyền lực nằm trong tay Poutine, một cựu trùm KGB. Tất cả sinh hoạt chính trị, kinh tế đều nằm trong tay những tay cưu KGB đồng lõa với Poutine. Dân chủ Nga chỉ là dân chủ giả hiệu. Tham nhũng cao độ, bất công xã hội cùng cực, kinh tế thị trường man rợ. Những người lợi dụng được chế độ lao đầu vào phong trào tiêu thụ, những người bị gạt ra ngoài xã hội ngồi hối tiếc một xã hội Công sản trong đó không có thất nghiệp và những nhu cầu tối thiểu được nhà nước bao cấp. Trong bối cảnh đó, xây dựng một xã hội dân chủ, tự do là một ảo tưởng, một tiếng kêu giữa sa mạc, một trò giải trí của một thiểu số.
Đó là hiện tượng chung ở những nước hậu Công Sản nghèo, dân trí thấp, như những quốc gia trước đây thuộc liên bang Xô Viết. Hiện tượng đó không có ở Đức hay Ba Lan.
Hiện tương đó không xẩy ra ở Đức bởi vì Đông Đức được Tây Đức gồng mình xây dựng lại theo mô hình Tây Đức, một quốc gia tiến bộ và thịnh vượng nhất Âu Châu. Nhất là một văn hóa dân chủ cao, cao hơn nhiều nước Âu Châu khác, bởi vì họ còn ám ảnh bởi những kỷ niệm đen tối, ghê rợn của những năm độc tài Phát xít, ý thức rằng dân chủ là con đường sống duy nhất. Dân tộc Đức đã đạt một thành quả vĩ đại : đưa một nưả quốc gia từ xã hội độc tài, nghèo đói tới một xã hội dân chủ đích thực.
Hiện tượng đó không xẩy ra ở Ba Lan bởi vì Ba Lan, với trợ cấp khổng lồ của Cộng Đồng Âu Châu, đã xây dựng một nền kinh tế lành mạnh và có khả năng phát triển. Người dân tin ở tương lai. Khi người ta tin ở tương lai, người ta không hối tiếc quá khứ. Adam Michnik, một trí thức đấu tranh cho dân chủ Ba Lan viết: nếu bạn ghé thăm Ba Lan, sẽ thấy ít có chuyện hồi tưởng chế độ CS. Không có ai muốn quay lại với quá khứ (1).
Chính mô hình Ba Lan hậu Cộng Sản đã khiến những người tranh đấu ở Ukraine nổi loạn.
Ở những xứ khác, dân trí thấp, càng thay đổi càng giống như cũ. Đó là trường hơp những nước cựu Liên bang Xô Viết. Đó là trường hợp của những nước Cách mạng Ả Rập. Cách mạng bùng nổ nhờ những người đầy thiện chí, muốn cải tạo đất nước, nhưng khi cách mạng thành công, chính quyền đều rơi vào tay Hồi giáo (hay Hồi giáo và quân phiệt thay nhau như ở Ai Cập), là những giới có tiền, có người, có tổ chức. Những nhà tranh đấu bị loại ra ngoài lề không thương tiếc, bằng bạo lực, bằng thủ đoạn gian manh, ngay cả bằng lá phiếu. Những nhóm trí thức tiến bộ thua trong tất cả những cuộc bầu cử vì họ nói một ngôn ngữ mà dân chúng không hiểu. Sau khi Moubarak bị lật đổ, những người đã thăm viếng Ai Cập đều biết tổ chức Huynh Đệ Hồi giáo sẽ thắng cử, mặc dầu họ không có công trạng gì trong việc lật đổ độc tài. Chỉ cần ghé qua những khu bình dân, sẽ thấy những bệnh xá, những quán cơm bình dân rẻ tiền hay miễn phí đều do tổ chức này điều hành. Tunisie, quốc gia có hàng ngũ trung lưu đông đảo, nhờ chính sách giáo dục tiến bộ từ thời Bourguiba, sau khi dành độc lập, nhờ một giới trẻ, nhất là phụ nữ can đảm, đầy nhiệt huyết đã tránh cho Tunisie một hiến pháp sặc mùi Hồi giáo trung cổ, nhưng cuối cùng, quyền hành chính trị hay tài chánh cũng rơi vào tay những nhóm Hồi giáo. Những nhóm khác chỉ còn đôi mắt để khóc.
Những gì xẩy ra ở Nga có thể lập lại ở Việt Nam. Chế độ CS đổ nhưng vẫn không có dân chủ và người CS vẫn nắm quyền, mặc dầu không mặc áo đỏ nữa. VN có đầy đủ những yếu tố của xã hội Nga: một giai cấp trí thức lãng mạn, (cộng thêm cái thói chia rẽ khủng khiếp, bệnh hoạn độc quyền của dân tộc ta), không chuẩn bị, không tổ chức, một văn hóa dân chủ mơ hồ trong quần chúng, một hàng ngũ Cộng Sản có tổ chức, có lâu la, dư tiền bạc để lũng đoạn các sinh hoạt chính trị . Việt Nam không có Gorbachev, nhưng sẽ có những Poutine, Loukachenko, những tay cựu công an không còn vẽ sao vàng trên trán, nhưng sẽ đổi dạng, complet, cà vạt, xách Samsonite dẫn đầu một lực lượng đáng sợ là tư bản đỏ.
Dân chủ là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi những điều kiện khách quan. Một trong những nguyên tắc căn bản : muốn có dân chủ (démocratie), phải có người dân chủ (démocrates). Hàng ngũ những người dân chủ phải đông đảo để bảo vệ khi dân chủ đang thành hình, để những người tranh đấu cho dân chủ không bị cô đơn, những lực lượng phản dân chủ không thể lộng hành.
Muốn có một hàng ngũ những người dân chủ, phải có một giai cấp trung lưu. Bởi vì giai cấp thượng lưu thường thường đồng lõa với chính quyền để bảo vệ quyền lợi. Giai cấp bình dân chỉ nghĩ đến nhu cầu thực tiễn trước mắt là lo ăn, kiếm sống. Giai cấp trung lưu có ý thức, có nhu cầu tự do dân chủ, là giường cột cho bất cứ một xã hội dân chủ nào.
Huấn luyện, đào tạo một văn hoá dân chủ trong giai cấp trung lưu là chuyện cần thiết, lâu dài và cấp bách. Vừa lâu dài vừa cấp bách. Cấp bách vì nước đã đến chân, nếu không muốn nói đã tới cổ. Lâu dài vì nếu La Mã không được xây trong một ngày, xây dưng văn hóa dân chủ còn nhiều đường đất hơn nữa. Một thí dụ : những người cổ võ cho dân chủ không thể chỉ thoả mãn với những lời hô hào suông, những khẩu hiệu rỗng tuyếch đã nhắc đi nhắc lại ngàn lần. Phải có những bài, những sách mổ xẻ cụ thể dân chủ là gì, cần những điều kiện khách quan nào, phải tránh những cạm bẫy nào, tại sao không thể xây dưng lại đất nước nếu không có dân chủ…
Đó là chỉ là một thí dụ nhỏ trên mặt lý thuyết, chưa nói đến vấn đề tổ chức vốn là yếu điểm của người Việt. Nhưng lý thuyết không phải là chuyện vô bổ . Trái lại, đó là nền tảng cho việc xây dựng sau này. Việt Nam, mặc dù với một nền giáo dục ngu dân, lạc hậu, giáo điều, nhờ Internet, du lịch, du học đã có một giai cấp trung lưu. Vấn đề là làm thế nào để biến hàng ngũ trung lưu càng ngày đông đảo trở thành nền móng cho một xã hội dân chủ, trước khi họ trở thành những cái máy tiêu thụ. Đó là vai trò của sách vở, báo chí, truyền thông, và một xã hội dân sự tích cực .
Những nhận xét rất thực tế của những người trong cuộc như Svetlana Alexievitch khiến người Việt phải suy nghĩ nếu không muốn đi vào bánh xe đổ. Cộng sản đổ, chưa chắc đã có ngay dân chủ nếu không chuẩn bị, không có tổ chức, không có ý thức chính trị đứng đắn. Con đường sẽ còn nhiều chông gai.
Đó là một cái nhìn thực tiễn, không phải một cái nhìn bi quan. Dân chủ không ở trên trời rơi xuống, nhưng mặc dù dân chủ chưa thành hình, mặc dù những người cựu CS sẽ còn lộng hành, điều chắc chắn là chủ nghĩa CS đã chết. Svetlana Alexievitch trích dẫn một câu của sử gia Nga Serguei Averintsev : chế độ Cộng Sản “đã xây dựng những cái cầu trên một con sông cuả ngu dốt, nhưng dòng sông ngày nay đã hoàn toàn là dòng sông khác”. Bao nhiêu nước đã chẩy dưới cầu, dòng sông không còn là dòng sông cũ, vấn đề là phải xây những cái cầu mới.
TỪ THỨC
( Paris, tháng 4 .2014 )
( 1 ) PHILOSOPHIE Magazine . HORS SERIE Avril 2014. Paris. La philosophie et le communisme
( 2 ) Svetlana ALEXIEVITCH : La guerre n’a pas un visage de femme ( Ed.La Renaissance.Paris), La fin de l’homme rouge (Ed. Actes Sud, Paris ), Les Cercueils de zinc ( Ed. Christian Bourgeois), La Supplication. Tchernobyl,chroniques du monde après l’apocalypse ( Ed. Lattès.Paris
( 3 ) La fin de l’homme rouge ( Actes Sud. Paris )