Con Đường Buồn Thiu

CON ĐƯỜNG BUỒN THIU 

Nước buồn thiu con đường đổ lệ,
Những oan khiên đè nặng đôi đường.
tth

 Nghe nhạc: Con đường buồn thiu – Quảng Trị yêu dấu

Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương lần 1(1946-1954) hay còn gọi là chiến tranh Việt-Pháp vùng Trị-Thiên khói lửa là nơi xảy ra các trận giao tranh lớn, nhỏ giữa 2 bên.

Quân đoàn Viễn Đông Pháp(French Far East Expeditionary Corps)gần nửa triệu binh sĩ gồm Pháp, Algeria, Maroc, Madagascar, Senegal, Tunisia…và Binh đoàn Lê dương (Foreign Legionnaires) là lực lượng viễn chinh thuộc địa của Quân đội Liên Hiệp Pháp, từ sau năm 1946, những người lính trong các binh đoàn lính lê dương này đã đặt cho tên gọi Con Đường Không Vui(La Rue Sans Joie) với chỉ 1 chi tiết nhỏ là  nếu không mang áo giáp thì không nên đi trên con đường này. Sau này thế giới biết tên con đường này qua quyển sách Con Đường Buồn Thiu (Street Without Joy) của ký giả người Pháp là Bernard B. Fall.(Hình phải: Con Đường Buồn Thiu theo tài liệu quân sự Mỹ, bản đồ Ray Smith)

Con Đường Buồn Thiu là một đoạn của con đường đất dài  khoảng 25km thuộc  tỉnh lộ 68-QT nay đổi thành Quốc lộ 49C, dọc theo sông Vĩnh Định chạy dài từ làng Phương Lang, Phú Hải, qua các làng Cổ Lũy, Ba Du, Đa Nghi, Đơn Quế, Kim Long, Kim Giao, Đồng Dương cho đến làng Xuân Viên, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Đoạn đường dài hơn 10km chạy qua các thôn, làng nhỏ nằm dọc theo cồn cát ven biển và các cánh đồng lúa, cách Quốc lộ 1 khoảng 9km và Biển Đông 6km mà tâm điểm chính là làng Đơn Quế, huyện Hải Lăng này được đặt tên gọi là Con Đường Buồn Thiu từ trận chiến chính và ác liệt nhất trong cuộc hành quân Camargue năm 1953 nhằm tiêu diệt Trung đoàn 95, trung đoàn chính quy đầu tiên thành lập trên đất Quảng Trị, cùng Tỉnh đảng bộ cọng sản, du kích địa phương đang đóng quân nơi này, đồng thời tái lập chính quyền quốc gia tại đây.

  Theo dấu vết các cuộc hành quân của quân đội Pháp và Mỹ trong 2 cuộc Chiến tranh Đông Dương(1945-1975)thì có thể Con Đường Buồn Thiu nối dài thêm 2 đoạn phụ, tùy theo theo bản đồ hành quân:

   – Đoạn dọc theo biển từ làng Xuân Viên, đến làng Thanh Hương, xã Điền Hương, vô tới làng Thế Chí, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế .

   – Đoạn đi từ làng Xuân Viên, vượt sông Ô Lâu đến làng Vân Trình, qua làng Lai Hà, lên tới Sịa thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế, hoặc từ làng Vân Trình theo quốc lộ 49C hiện nay lên đến Mỹ Chánh, gặp Quốc lộ 1.

Tại Con Đường Buồn Thiu, 2 năm trước khi xảy ra trận đánh dữ dội trong số các trận đánh  hàng đầu trong chiến tranh Đông Dương qua cuộc hành quân Camargue, hay trận Đơn Quế, có :

   – Trận Thanh Hương  xảy ra trong 3 ngày, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 3 năm 1951, phía Pháp xử dụng 2.200 quân lính Lê dương và Quân đôi quốc gia cùng lực lượng thiết giáp, hải quân và không quân. Chiến lược của Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, là “bình định cấp tốc, phản công quyết liệt” bao vây 2 trung đoàn chủ lực  95  Quảng Trị và trung đoàn chủ lực 101 Thừa Thiên cùng du kích địa phương tại vùng duyên hải  mà trận chiến chính tại làng Thanh Hương-Vĩnh Xương, phía Bắc Thừa Thiên giáp Nam tỉnh Quảng Trị, được viết  trong hồi ký Những ngày khói lửa của Trung tướng Quân đội Nhân dân VN Trần Quý Hai.

   – Cuộc hành quân Châu chấu (Operation Sauterelle) tảo thanh từ ngày 25 đến 28 tháng 8 năm 1952 tại các vùng thuộc phía Đông tỉnh Quảng Trị.

Hành  quân Camargue(Operation Camargue)hay là Trận Đơn Quế, qua tài liệu từ trang 386 đến trang 389 cuốn Lịch sử Đảng bộ Cọng sản tỉnh Quảng Trị.

Hành  quân Camargue năm 1953 xuất phát từ bối cảnh lịch sử của hành động quân sự chiến lược của người Pháp sau 8 năm chiến tranh, dựa trên thực tiển tình thế xung đột vùng châu Á-Thái Bình Dương: chiến tranh Triều Tiên kết thúc ngày 27 tháng 7 năm 1953. Mao Trạch Đông chiếm lục địa Trung Hoa(1949) và là hậu phương lớn viện trợ tài lực nhằm bành trướng đại Hán và chủ nghĩa cọng sản tại Việt Nam,  Hoa Kỳ can thiệp vào Đông Dương sau khi Pháp yếu thế, cùng diễn biến tình hình quân sự ba nước Đông Dương và cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ thành lập nhằm bảo vệ thương Lào và là mồi nhử Quân đội Nhân dân VN trong trận chiến cuối cùng.

Tháng 5 năm 1953, Tướng Henri Navarre nắm quyền chỉ huy lực lượng Pháp khi chiến tranh Việt- Pháp đã kéo dài 8 năm. Navarre quyết định một chiến thuật tấn công mới ở Đông Dương “dựa trên các lực lượng mạnh, di chuyển nhanh” và Chiến dịch Camargue hình thành là hiện thực hóa điều đó. Hành quân Camargue được đặt tên theo vùng đầm lầy và đồi cát ở Camargue phía tây Marseille, giữa biển Địa Trung Hải và hai nhánh sông ở vùng hạ lưu sông Rhône, trong trận chiến Pháp-Đức năm 1944(Hình phải trên: Vùng Camargue bên Pháp). Địa hình hiểm trở gồm đồi cát và đầm sình lầy mà Operation Camargue đối đầu là yếu tố quyết định tạo cơ hội và lợi thế lớn cho Việt Minh.

Cuộc hành quân Camargue từ  ngày 28 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1953, suốt 13 ngày nhằm bình định và truy lùng Trung đoàn 95 cùng các cơ quan của tỉnh, huyện đóng tại làng Đơn Quế và du kích quân, đồng thời bình định, tái lập chính quyền quốc gia tại vùng duyên hải này.

 Cuộc hành quân do Thiếu tướng Georges Leblanc, Tư lệnh Quân đội Pháp tại miền Trung Việt Nam chỉ huy, cùng 2 đại tá, 2 trung tá phụ trách 4 cánh nhằm bao vây, tiêu diệt Trung đoàn chủ lực 95 , đơn vị chủ lực của Phân khu Bình Trị Thiên hồi bấy giờ, là một trong những chiến dịch lớn nhất của Quân đoàn Viễn Đông Pháp và Quân đội Quốc gia Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất tại vùng duyên hải tỉnh Quảng Trị, được so sánh với các cuộc hành quân lớn trong thế chiến thứ 2 tại châu Á.

Địa bàn trải dài 20km rộng 300m trong bản đồ hành quân thuộc  vùng duyên hải  gồm hơn 24 ngôi làng với địa hình là các đồi cát cao thấp, cát lún đầm lầy cạnh phá Tam Giang, vòng vây thu hẹp còn lại 1 nửa, chiều dài là 10km mà trận chiến chính xảy ra tại làng Đơn Quế, trung tâm điểm của Con Đường Buồn Thiu này. Thế trận 2 bên :

– Lực lượng phía VM có Trung đoàn 95 gồm 2.600 binh lính, đã đóng quân tại làng Đơn Quế từ năm 1951 cùng lực lượng du kích địa phương . Đại tá  Việt Minh là Trần Quý Hai chỉ huy trận chiến này.

– Lực lượng Pháp phối hợp ba lực lượng không quân từ Hà Nội, hải quân từ Đà Nẳng và bộ binh 30 tiểu đoàn, hai trung đoàn thiết giáp và hai trung đoàn pháo binh. Bản đồ hành quân Camargue trong sách Street Without Joy của Bernard Fall dẫn giải cuộc hành quân bắt đầu gồm 4 cánh  A-B-C-D cùng các đơn vị tham gia hành quân:(xem địa hình).

. Cánh A: tàu thuyền đổ bộ vào biển Mỹ Thủy, huyện Hải Lăng.
. Cánh B: bộ binh từ tỉnh lỵ Quảng Trị theo Tỉnh lộ 68/QT tiến vào làng Đơn Quế, huyện Hải Lăng.
. Cánh C: Bộ binh và thiết giáp từ Mỹ Chánh theo Tỉnh lộ DT6/TT hướng về Đông xuống làng Vân Trình.
. Cánh D: từ biển đổ bộ lên làng Thế Chí Tây, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Mỗi cánh quân bao gồm các đơn vị chuyên biệt đi kèm(xem bản dồ hành quân trên)

Và thắt chặt vòng vây bởi các đơn vị tham chiến từ làng Đơn Quế đến làng Lai Hà, cạnh vùng đầm lầy bên Phá Tam Giang(The net closes, D-day nightfall) tâm điểm tại làng Vân Trình sau 7 ngày, cho đến khi cuộc hành quân kết thúc, ngày 4 tháng 8.

Để rõ hơn trận chiến này, xin vui lòng đọc thêm bản dịch Chương 7-Con Đường Buồn Thiu từ trang 144 đến trang 179 trong Street Without Joy, Stackpole books, Harrisburg,Pa. ấn bản năm 1994 của Bernard Fall mô tả toàn bộ cuộc hành quân Camargue của nhà văn Tuệ Chương Hoàng Long Hải .

Báo chí giai đoạn đó cho rằng chiến dịch này đã thành công hoàn toàn, một lần nữa chứng tỏ tính mạnh mẽ và cơ động mới của quân Pháp. Tuy nhiên, trong những ngày sau khi chiến sự kết thúc, báo chí đưa tin về việc Pháp không bắt được số lượng lớn Việt Minh như dự liệu. Mặc dù tờ báo Anh, The Times, đã công bố con số thương vong là 1.550 về phía Việt Minh, 200 trong số đó đã bị giết. Con số ước tính này đã được người Pháp công bố là 600 người chết hoặc bị thương và 900 người bị bắt. Ngược lại, những con số này, Bernard Fall ghi nhận 182 Việt Minh chết và 387 bị bắt làm tù binh. Tịch thu 51 khẩu súng trường, 8 súng máy, 2 súng cối và 5 khẩu BAR đã bị thu giữ.

Phía quân Pháp gồm 17 người chết và 100 người bị thương.

Trung  tướng Lâm Quang Thi của Quân lực Việt Nam Cọng Hòa viết trong hồi ký “Thế Kỷ Hai Mươi Lăm Năm: Một Vị Tướng Miền Nam Nhớ Chiến Tranh Đông Dương Đến Sài Gòn Thất Thủ” (The Twenty-five Year Century: A South Vietnamese General Remembers the Indochina War to the Fall of Saigon)cho rằng Chiến dịch Camargue hay Trận Đơn Quế, là một trong những hoạt động quân sự thành công nhất của Pháp trong Chiến tranh Đông Dương .

Bernard B. Fall(1926-1967)viết 8 quyển sách về Chiến tranh Đông Dương(1946-1975)trong đó có cuốn Street without Joy: The French Debacle in Indochina, nhà xuất bản Stackpole books, Harrisburg,Pa. ấn bản năm 1994, sách dày 408 trang (in lần đầu năm 1961).

 Quyển sách này có 15 chương, gồm:

 Lời giới thiệu, Lời nói đầu, Tựa đề của tác giả.

  1. Chiến tranh diễn ra như thế nào, 2. Trận chiến theo quân I, 3. Trận chiến theo quân cờ II, 4. Nhật ký: Kiếm sữa, 5. Tiền đồn Lào, 6. Nhật ký: Những người Phụ Nữ, 7. “Con dường buồn thiu”, 8. Nhật ký: Chuyến khảo sát, 9. Kết thúc Đội Đặc nhiệm, 10. Nhật ký: Những người đàn ông, 11. Hành trình chết chóc, 12. Tại sao là Điện Biên Phủ? 13. Lào Mất, 14. Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, 15. Tương lai của chiến tranh cách mạng.

Các phụ lục: I, II, III, IV.

Chương 7-Con dường buồn thiu trong Street Without Joy mô tả toàn bộ chi tiết cuộc hành quân Camargue.

Street without Joy là một tiểu luận về lịch sử chính trị quân sự của cuộc chiến chủ yếu diễn ra giữa Quân đội Pháp và Việt Minh, phác thảo đường lối, chủ trương chống chiến tranh du kích với tư cách nhà báo tại chiến trường và giáo sư trên bục giảng tại Mỹ.

Nhà báo hay học giả về chiến tranh Đông Dương Bernard Fall đã ghi lại một cách sống động những cảnh tượng, âm thanh và mùi vị của cuộc xung đột tàn khốc và phức tạp về mặt chính trị giữa người Pháp và người lãnh đạo Cộng sản ở Đông Dương. Người Pháp đã chiến đấu đến cùng, nhưng ngay cả với những lợi thế chết người của quân đội hiện đại, họ cũng không thể ngăn chặn được cuộc nổi dậy của Việt Minh bằng chiến thuật đánh rồi bỏ chạy, phục kích, bẫy mìn và đột kích vào ban đêm. Thất bại cuối cùng của Pháp xảy ra tại Điện Biên Phủ năm 1954, tạo tiền đề cho sự tham gia của Mỹ và một chương đẫm máu hơn trong lịch sử Việt Nam. Fall kết hợp báo cáo bằng hình ảnh với kiến ​​thức học thuật sâu sắc về Việt Nam và lịch sử thuộc địa tại đây trong một cuốn sách đáng nhớ với những mô tả về chiến đấu trong rừng rậm, vùng sình lầy với những lập luận sâu sắc,  nhưng người Pháp lẫn Mỹ lại không muốn quan tâm.

Bernard B. Fall vốn là lính trong quân đội Pháp lúc 20 tuổi(1946), nên khi qua Việt Nam với tư cách nhà báo, ông dễ dàng và thuận tiện theo chân Quân đội viễn chinh Pháp để viết về chiến tranh tại 3 nước Việt-Miên-Lào.

Lại thêm là một giáo sư giảng dạy tại Đại học Howard,Washington D.C, Hoa Kỳ (1962) sau này Fall ủng hộ sự hiện diện của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tin rằng nó có thể ngăn đất nước này khỏi rơi vào vòng chủ nghĩa cộng sản, nhưng ông chỉ trích mạnh mẽ các chiến thuật mà quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam cùng sự thiếu hiểu biết về lịch sử dân tộc này.

Khi xung đột giữa lực lượng Mỹ và cộng sản ở Việt Nam leo thang trong suốt những năm 1960, Fall ngày càng bi quan về cơ hội thành công của người Mỹ. Ông dự đoán nếu không rút kinh nghiệm từ sai lầm của Pháp thì Việt Nam cũng sẽ thất bại. Fall đã viết nhiều bài báo phân tích chi tiết về tình hình Việt Nam và thuyết trình rất nhiều về ý tưởng của ông về Chiến tranh Việt Nam. Nghiên cứu của Fall được nhiều nhà ngoại giao và quan chức quân sự Mỹ coi trọng, nhưng những ý kiến ​​tiêu cực của ông thường bị phản bác. Ngoại trưởng John Foster Dulles năm 1958, đã phản đối ý tưởng của Fall về chống nổi dậy ở Việt Nam (Hình phải: Hình B.Fall trên bìa sách của Dorothy).

Bernard Fall tiên đoán những thất bại của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam vì chiến thuật và sự thiếu hiểu biết về xã hội tại đây.

Giới trách quân sự Pháp-Hoa Kỳ ít chú trọng quan điểm, phương sách chống du kích cọng sản, cách mạng nổi dậy của  Bernard B. Fall. Việt Nam Cọng Hòa cảnh giác về việc xem chừng Fall tỏ ra lưu tâm Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa khi gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh và phỏng vấn Phạm Văn Đồng.

Trong cuốn tự truyện My American Journey Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Colin Powell, 2 lần(1962,1968)phục vụ tại VN, được huân chương Chiến sĩ dũng cảmvì hy sinh cứu đồng đội, cùng giẫm phải bẫy chông VC, xuất bản năm 1995, viết: “Gần đây tôi đã đọc lại cuốn sách về Việt Nam của Bernard Fall, Con Đường Buồn Thiu. Fall cho thấy rõ một cách đau đớn rằng chúng tôi hầu như không hiểu gì về những gì chúng tôi đã dấn thân vào. Tôi không thể không nghĩ rằng nếu Tổng thống Kennedy hay Tổng thống Johnson dành một ngày cuối tuần yên tĩnh ở Trại David để đọc cuốn sách sâu sắc đó, họ sẽ quay trở lại Nhà Trắng vào sáng thứ Hai và ngay lập tức tìm ra cách thoát khỏi bãi cát lún của Việt Nam.”

Ngày 21 tháng 2 năm 1967, tác giả người Mỹ gốc Pháp Bernard Fall, trong cuộc “Hành quân Chinook II” khi đang tuần tra cùng các đơn vị của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 9 Thủy quân lục chiến gần Huế dẫm mìn định hướng bị tử thương cùng và Trung sĩ Pháo binh Byron G. Highland, cũng là 1 nhiếp ảnh gia gần đó thiệt mạng tại làng Lai Hà(Hình bên: Cấp cứu Bernard Fall và Byron Highland sau vụ nổ mìn).

“Đầu tiên, khoảng 4 giờ 30, bóng tối đang kéo dài. và chúng ta đã đạt đến một trong những ranh giới phía sau cuộc đọ súng và nó có mùi rất khó chịu, có nghĩa là nó hơi đáng ngờ… Có thể là một kế nghi binh…..” Bernard Fall chết trước khi kịp nói hết câu. Quả mìn nổ đã gây thử thương ngay cho Bernard Fall và Trung sĩ Pháo binh Byron G. Highland, khi Fall đang tường thuật trực tiếp về đài CBS tại Mỹ vào chiều ngày 21 tháng 2 năm 1967 trên con đường đất hai bên trồng lúa. Thi hài được người vợ đau khổ qua Đà Nẳng đưa về Mỹ và an táng tại nghĩa trang Rock Creek ở Washigton D.C.

                                                 Ngay sau cái chết của Bernard Fall, cuốn sách Những Suy Ngẫm Cuối Cùng Về Một Cuộc Chiến (Last Reflections on a War), được xuất bản (lần đầu 1967), như là một sự tưởng nhớ cuộc đời ông. Tài liệu  bao gồm tự truyện duy nhất được biết đến về công việc của ông, một số bài báo chưa được xuất bản trước đó, những ghi chú lại  và các bản ghi âm về các đoạn băng ghi âm của Tiến sĩ Fall, bao gồm cả những lời được ghi âm cuối cùng của ông. (Hình phải:Bia mộ Bernard B.Fall)

Vợ của ông, Dorothy Fall đã bày tỏ lòng kính trọng đối với ông với tư cách là một học giả quân nhân, Fall cũng là một nhà báo từng đoạt giải thưởng Polk với các bài báo xuất hiện trên Tạp chí New York Times, The Nation, The New Republic và tạp chí Ngoại giao. Bernard Fall là một nhà lý luận về chiến tranh, một người đã nhìn thấy nó từ mặt đất. Fall đã nói với một sĩ quan Thủy quân lục chiến vài ngày trước khi chết, rằng Fall muốn có mặt ở “nơi hành động”. Nhất quyết trải nghiệm Chiến tranh Việt Nam như những ngườì lính.

Năm 2018, nhà báo Matthew  Stevenson chụp con đường năm 1967 (xem 1′.03″video) nơi mà Bernard Fall tử nạn vì mìn tại làng Lai Hà, xã Quảng Lợi,(hình dưới) huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cạnh Phá Tam Giang, cách chợ Sịa khoảng 8km, cách trung tâm(tại làng Đơn Quế) Con Đường Buồn Thiu khoảng 15km, nằm trên đường  4 ĐT Thừa Thiên-Huế hiện nay. Bài báo viêt:

“Nhiều năm sau khi chồng mất, năm 1997 Dorothy Fall cùng các con gái đến làng Lai Hà. Nhưng họ chỉ đến gần được địa điểm chính xác, nơi mà lẽ ra đã bịến mất trong sương mù chiến tranh. Cô ấy viết: Chúng tôi đi bộ đến một địa điểm vắng vẻ ở rìa làng trông giống như điểm bắt đầu của Con Đường Buồn Thiu. Với tất cả sự nổi tiếng của nó, nó chỉ là một con đường dẫn vào vùng đầm lầy. Chúng tôi đã không đến tận nơi Con Đường Buồn Thiu. Mà như thế cũng đã đủ.”

Vợ của nhà báo quá cố Bernard Fall, Dorothy Fall  là 1 nghệ sĩ, viết cuốn “Bernard Fall: Memories of a Soldier“-Scholar-Potomac books – 2007 kể về chồng, câu chuyện về người 1 Pháp dũng cảm và có ảnh hưởng, người đã trải qua nhiều sự kiện lớn của thế kỷ XX. Mẹ chết ở Auschwitz, cha bị Gestapo giết, và bản thân Bernard Fall đã chiến đấu trong quân kháng chiến Pháp . Nhưng tất cả tập trung vào Việt Nam và hai câu chuyện tình yêu. Những chi tiết đầu tiên về tình yêu của Fall dành cho Việt Nam và những nỗ lực cứu đất nước khỏi bị tàn phá và cứu nước Mỹ khỏi thảm họa. Phần thứ hai cho thấy một người chồng và một người cha cống hiến hết mình. .

Hậu quả của cuộc Chiến tranh Đông Dương(1946-1954)làm:

– Phía Pháp và Quốc gia VN có :

. Liên Hiệp Pháp: 74.220 người chết (20.685 là người Pháp), 64.127 người bị thương.
. Quân đội Quốc gia VN: 58.877 người chết hoặc mất tích.
Tổng cộng:  134.500 người chết hoặc mất tích

– Phía Việt Minh có 175.000–300.000 người chết hoặc mất tích

– Khoảng 400.000 thường dân thiệt mạng

 Có khoảng hơn 63 nhà báo chết và mất tích trong khoảng thời gian 20 năm, từ năm 1955 đến năm 1975.

Đó là chưa nói đến cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 (1954-1975) cùng những hậu quả tàn khốc vô lường của nó.

Con Đường Buồn Thiu(1953) và Đại Lộ Kinh Hoàng(1972) là những khổ đau chồng chất mà nhân dân Quảng Trị phải hứng chịu do chủ trương bạo động dùng súng đạn để giải quyết những tranh chấp chính trị tại Việt Nam, quả là sai lầm tệ hại.

Học giả Phạm Quỳnh nhân danh là một người quốc gia, trong thư gửi  Bộ trưởng thuộc địa Pháp Paul Reynaud để thuyết phục, đồng thời cũng để đả thông dư luận trong nước, năm 1932 viết: “Chúng tôi là một dân tộc đi tìm kiếm một đất nước và chưa tìm thấy đất nước đó….. Các bạn đến đất nước này bằng vũ lực và đô hộ. Các bạn đã chinh phục mảnh đất này. Các bạn còn phải thực hiện một cuộc chinh phục khác cao quý hơn: chinh phục trái tim và khối óc”. Đừng nói đến súng đạn.

Trong tác phẩm Chính đề Việt Nam, ông Ngô Đình Nhu viết:

“Các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở miền Bắc đã trụ vào lý thuyết Cộng Sản… là một lối bế tắc cho sự nghiệp tiến hóa của dân tộc. Chẳng những như chúng ta đã phân tích, sự tiếp tục trụ đóng vào lý thuyết Cộng Sản sẽ không làm sao giải quyết được công cuộc phát triển cho dân tộc, mà lại còn mở cửa đưa các thế hệ sau này, vào một đời sống vô cùng đen tối không lối thoát. “. Cuộc xung đột ở Việt Nam là chính trị chứ không chỉ đơn giản là quân sự.(Hình phải: Bản đồ hành chánh tỉnh Quảng Trị)

Năm 1946 khi phát động chiến tranh Việt-Pháp,  lãnh đạo Cộng sản Hồ Chí Minh nói: “Các người có thể giết 10 người của tôi,  tôi chỉ cần giết các người 1, ngay cả với cả tỉ lệ cược đó, các người vẫn sẽ thua và tôi sẽ thắng.”. Qua chiêu bài đánh Pháp, quả là đã “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, xem dân chúng như bia đỡ  đạn khi chọn đường lối bạo động vũ trang, để tập hợp dân chúng, xây dựng đội ngũ, rèn cán chỉnh quân, kiện toàn đảng, đoàn nhằm thực hiện  chủ nghĩa cọng sản cho 30 năm sau(1975), và đất nước cho đến nay 50 năm sau, vẫn mãi chìm đắm trong vòng đôc tài, áp bức, lầm than và lạc hậu. Thử hỏi, nếu không có 2 cuộc chiến tranh vô ích này, người dân và đất nước Việt Nam sẽ ra sao.

Sau cuộc chiến 50 năm tính từ năm 1975, lịch sử đã chứng minh, nếu lãnh đạo và dân chúng Việt Nam sáng suốt theo quan điểm bất bạo động chống Pháp của cụ Phan Châu Trinh thì ngay sau Thế chiến thứ 2, Việt Nam cũng khả dĩ có độc lập như Ấn Độ (1947)và các nước khác đồng cảnh ngộ mà thoát khỏi được 30 năm chiến tranh(1946-1975) vô ích, như đã xảy ra. Bất hạnh thay!

Cuối cùng xin ghi chú thêm rằng, bài viết này nhằm mục đich là, để tưởng nhớ những con dân Việt đã mất đi vì lửa đạn oan nghiệt trong cuộc chiến, đồng thời để điều chỉnh các thiếu sót,  bất cập qua tài liệu về Con Đường Buồn Thiu vốn có trên sách vở, báo chí và internet vì tam sao thất bổn trong suốt thời gian dài 72 năm qua, cùng là để ghi nhớ lại một thời chiến tranh khốc liệt trên đất nước Việt Nam, tại vùng Trị-Thiên khói lửa mà người dân Quảng Trị, đặc biệt các bà mẹ, em bé đã phải hứng chịu oan khiên, khi chạy giặc dọc theo Con Đường Buồn Thiu này.

Boston, Mar 20, 2024

Trương Thúy Hậu

Ghi chú : Viết theo các tài liệu sách báo và trên internet dẫn giải trong các insert links, cùng không ảnh thuộc Google map.

img

This entry was posted in Lịch Sử and tagged . Bookmark the permalink.

Comments are closed.