đinh trọng phúc

BIỂN NHỚ     

(Tưởng nhớ cố đại úy Lê kim Chung đại đội trưởng đại đội 2 tiểu đoàn 105 ĐPQ Tiểu khu Quảng trị -Vĩnh Huề Thôn mùa hạ 1974)

Thôn Vĩnh Huề(Hình phải,có vòng tròn đen tháng 4/1974)  chỉ là một đồng cỏ hoang vu ẩm ướt, không một bóng cây ngoại trừ mấy vạt dương ven biển. Đâu bóng dân làng? Họ đã lưu lạc tận phương trời nào? Có ngày lính trung đội tôi đào lên một số hầm. Thì ra trước lúc bỏ làng ra đi vì chiến cuộc người dân Vĩnh Huề đã chôn dấu nhiều lu, vại bằng đất nung. Tôi thấy nhiều nhất là dĩa nhỏ.  Nói chung những thứ này không giá trị cho lắm. Mấy người lính trung đội tôi quê ở vùng này thì cho biết rằng: người dân vùng biển có tục lệ phải cúng trước khi ra khơi đánh cá nên họ có thật nhiều dĩa nhỏ, còn lu vại thì để làm mắm hay ruốc. Những lu vại nào tốt thì để đựng nước mưa . Dân vùng biển quý nước mưa lắm, chỉ để dùng khi giỗ chạp thôi.

Ngày đầu ra mạn biển, thứ chúng tôi cần nhất là nước. Đừng cho chúng tôi đóng quân sát biển là ngồi chịu cơn khát nước hành hạ, trái lại chúng tôi chỉ cần đào lên một hố xấp xĩ một mét là có nước ngọt ngay. Điều này cũng dễ hiểu, vì mặt bằng của biển ngoài kia thấp hơn mặt đáy túi nước ngọt đọng dưới lớp cát chúng tôi đang đóng. Thế – lính truyền tin- găp may. Thế ‘vớ’ đâu ra đươc nửa tấm tôn cũ , rồi Thế uốn cong lại làm thành giếng. Cuối cùng trung đội tôi có được một giếng nước ngọt quý giá vô cùng. Nón sắt làm gàu; chỉ cần với tay tôi có ngay một gàu nước ngọt thơm tho không lẫn mùi phèn như cái giếng trong chốt đại đội. Nhưng chúng tôi không dám tham lam đào sâu thêm nữa, vì chỉ sâu thêm ít nữa là giếng sẽ bị nhiễm mặn ngay. Tôi chợt nghĩ đến Linh- trung đội trưởng súng nặng- có lẽ cái số nó dính liền với “chữ nặng” nên người nó “không được cao lắm” nếu tôi không muốn nói rằng ‘lùn’! Cái thằng ! miệng khi nào cũng ồn ào, cứ ‘kè-kè’ bên đại đội trưởng Lê kim Chung. Nhưng dù sao nó cũng được lòng đại đội trưởng Chung hơn tôi nhiều!

-Chừ thì mi làm sao thoải mái bằng tau hả Linh? Tau chừ ở xa ‘mặt trời’ (ám chỉ đại đội trưởng), tau lại có nước trong – có cả “biển thơ -biển mộng “ nữa đây nghe Linh ! Tôi  chợt cười một mình .

 Tôi lại nhớ đến mấy thằng bạn khác đều mới ra trường như tôi, lại cùng về chung một đại đội 2 này. Nào Tùng, nào Ngọc cũng là dân Huế như thằng Linh. Tùng và Ngọc thì ít nói hơn, trầm tĩnh hơn. Bốn trung đội trưởng chúng tôi cùng xếp áo thư sinh tòng quân sau mùa hè đỏ lửa 1972, lại cùng gặp nhau nơi tuyến đầu Quảng Trị này. Trong khi “dân Nguyễn Hoàng” như Thái Đào cũng khoác áo ‘ka ki’ một năm nhưng lại phục vụ ngược vào xứ Huế. Số phận Thái Đào thiếu may mắn, chỉ một thời gian ngắn ra đơn vị Đào đã trở thành phế binh mất một chân.

   Chuyện thực tế tiếp đến là củi. Lính chúng tôi chỉ dám thu dọn rồi gom lá dương khô mà nấu ăn thôi. Chúng tôi phải gìn giữ mấy tàng cây rậm để ngụy trang ẩn nấp. Hơn nữa đất ven biển rất cần mấy hàng dương này để chống nạn cát lấn dần vào phía trong. Chốn biển vắng vẻ buồn tênh; đôi khi tôi cũng có cảm hứng ngồi một mình ngắm trời mây và lắng nghe tiếng dương reo theo gieo gió. Trời vào hạ rồi đây. Mấy tuần này gió Lào bắt đầu thổi mạnh. Sóng biển ban ngày bị gió Lào thổi ra cản lại nên chỉ thấy lăn tăn. Chiều về trời trở Nồm, đưa gió vào lại đất liền sóng mới lớn hơn. Lúc này tôi mới nghe rõ tiếng sóng vỗ bờ cùng làn gió mát lạnh khoan khoái vô cùng!   Vĩnh Huề thôn , là cứ điểm cuối cùng của VNCH thời gian này cửa Việt đã mất về phía bên kia

Đùa chơi với sóng nước

     Biển sát cạnh tầm tay. Trung đội tôi lo xong chuyện ‘cơ ngơi’ mới rủ nhau ra tắm biển. Thế là một toán ‘đực rựa’ lột phăng hết áo quần để trở về với “thời nguyên thủy”. Dĩ nhiên ở vùng hoang vắng này làm gì có bóng đàn bà để phải ngượng ngùng. Cả một toán đàn ông dàn một hàng ngang ra hụp lặn đùa chơi với sóng nước. Khi đang nhấp nhô với sóng biển, tôi chợt nhận ra một đám nuốt, chúng như những cánh bèo trắng lờ đờ, bập bềnh theo sóng dạt vào bờ. Chẳng suy nghĩ tôi chụp một con nuốt đưa vào miệng nhưng tôi vội phun ra ngay vì nó cay và rát miệng vô cùng!

– Nuốt lửa đó

Lợi dân làng Phó Hội nên rành những thứ ở biển lắm.

Làn nước trong xanh vào buổi sáng cho tôi thấy rõ từng đàn cá lướt qua vun vút. Tôi tưởng tượng như đang ở tại một hoang đảo nào đó, mà ở đây hoang vắng thật! Cố nhướng mắt nhìn ra khơi tôi nhận ra phần đỉnh của đảo Hòn Cỏ; Hưởng xong thú tắm biển chúng tôi cũng biết dội lại nước ngọt từ cái giếng của trung đội, riêng tôi được ưu tiên hai gàu nước còn mỗi người còn lại chỉ một gàu thôi thì giếng đã cạn khô rồi, phải chờ nửa buổi nữa giếng đầy lại.

 Bình mình rực rỡ trên vùng biển quê hương chưa có dân về

    Cuộc vui nào cũng qua mau, cảnh tĩnh mịch lại trở về với chúng tôi. Càng trưa ngọn gió Lào càng thổi ra mạnh. Cát bay khắp nơi, nhìn dọc theo bờ biển, gió cát tạo thành từng lớp mây vàng nhạt. Tôi vội lấy nửa tấm poncho cũ che cho chiếc máy truyền tin PRC 25. Tôi rất quý chiếc máy truyền tin này vì nó là nguồn liên lạc là mạng sống của cả trung đội. Chiều buông xuống thật lẹ. Tôi nhìn về hướng tây, dãy Trường Sơn in đậm nét trên nền trời của một buổi chiều vàng. Tôi lại ngoái nhìn ra khơi, mặt biển từ từ tối dần lại. Lác đác vài cánh chim còn uể oải bay men theo bờ. Thật sự gió Nồm đã trở từ lâu, đưa ngọn gió mát rượi vào đất liền. Trong những khoảnh khắc sảng khoái của một buổi chiều tà ven bờ biển vắng, tôi cùng Lợi lấy miếng xốp khá lớn bị sóng đưa vào bờ lúc sáng sớm đem ra đẽo thành một chiếc thuyền nhỏ, còn cánh buồm thì Lợi làm từ một miếng tôn rách. Xong xuôi tôi không quên thêm vào một bánh lái đằng sau , phía trước tôi viết hàng chữ ‘Cửa Việt River mouth’.

Sáng dậy, chờ cơn gió Lào thổi ra mạnh, hai đứa chúng tôi đem thả con thuyền nhỏ ra biển. Thuận buồm xuôi gió, chiếc thuyền bé tí của chúng tôi theo làn gió đưa ra tít ngoài khơi. Một chút tưởng tượng, tôi chống nạnh đứng nhìn theo chiếc thuyền nhỏ từ từ mất hút, lòng tôi nửa hãnh diện như đã làm được một công trình vĩ đại, nửa như lưu luyến một người bạn vĩnh viễn ra đi. Tôi thầm ước mong một bến bờ nào đó có ai vớt được thuyền tôi, với hàng chữ ghi trên thuyền họ sẽ biết nơi phần đất này còn có sự hiện hữu của bọn này.

Cá ơi là cá ! quá nhiều cá đi

    Mùa tháng hạ, cánh đồng trũng nước khô đi nhanh chóng. Cá nước lợ thiếu nước nằm chờ chết khắp nơi. Mới mấy năm dân bỏ đi khỏi đây, cá sinh sôi nảy nở nhiều vô số. Lúc này đàn chim biển tha hồ bay vào bắt cá; từng đàn cá giãy đành đạch trên mấy thảm cỏ nước đang khô dần. Tuy vậy Lợi hứa sẽ dẫn trung đội đi hốt cá chứ không thèm ra bắt mấy thứ cá nhỏ như vậy. Lợi, tôi cùng một vài lính trung đội men theo mép biển đi về hướng nam. Chừng ba cây số thì gặp một bàu nước lớn nằm cách bờ biển chỉ vài trăm mét. Lợi hướng dẫn mọi người dùng xẽng đào một đường hào dài và sâu hơn nửa mét cạnh bàu nước hướng nhìn ra biển. Đào xong đường hào thì trời đã xế chiều, Lợi bảo tất cả ra về chờ khuya sẽ đi hốt cá. Tôi tuy nghe vậy nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ.

   Chờ tới khuya khoảng một giờ sáng Lợi đánh thức cả bọn dậy đi hốt cá thật. Lợi không quên đem theo ba cái bao lớn nữa. Tôi kiểm soát lại vọng gác thật đàng hoàng rồi theo Lợi hướng về bàu nước. Chúng tôi lầm lủi đi trong đêm. Trời về khuya khá lạnh, không gian chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Chúng tôi cứ theo mép sóng mà đi. Sóng biển ban đêm lấp lánh ánh lân tinh. Bầu trời thỉnh thoảng có vài ánh sao băng xẹt ngang. Tôi vừa đuổi theo cho kịp bọn vừa ngắm ánh sao băng, chúng như đang chui vào lòng đại dương vậy. Gió đêm càng về khuya càng lạnh dần. Đêm nay chúng tôi đang đi trong chiến tuyến an bình vì không nghe một tiếng súng nào. Đi hơn nửa giờ thì chúng tôi đã đến con mương cạnh bàu nước chiều qua. Trời ơi ! tôi không thể ngờ cá nhiều đến như thế: cá chen chúc nhau dưới đáy con hào, chỉ toàn là cá lóc mà chúng tôi thì quen gọi là cá tràu. Bọn tôi vui sướng thi nhau hốt cá đựng đầy cả ba cái bao gạo mà Lợi đem theo. Chúng tôi thay phiên nhau vác mấy bao cá nặng chĩu về chốt. Trên đường về Lợi mới giải thích cho tôi hiểu: thì ra mùa hạ nước trong bàu cạn dần, mấy chú cá nhất là cá tràu và trê, ban đêm chúng cảm nhận theo tiếng sóng biển mà ‘cằn’(trườn) ra và rớt hết xuống con mương đào sẵn này. Tôi thực sự phục kinh nghiệm của Lợi, một người dân sinh ra cùng lớn lên từ vùng biển.

   Về đến chốt chúng tôi đem cá nhốt ngay vào cái thùng phuy mà Lợi kiếm đâu ra từ lúc nào. Cá trê và rô thì bị nhốt riêng ra vì mấy cái ngạnh nhọn hoắc của chúng biến chúng thành mấy tên ‘sát thủ’ đáng sợ – chỉ cần sơ ý để đám này lẫn lộn vào đám cá tràu một lúc thôi thì đã có mấy con tràu chết lật ngửa bụng trắng hếu!

Mong chờ xe tiếp tế

     Ban chỉ huy trung đội gồm: tôi- binh nhất Thế , mang máy truyền tin PRC25- trung sĩ nhất Thản, trung đội phó của tôi. Tôi hay gọi trung sĩ Thản là “Bố Thản” vì ông đã gần 20 năm lính, dấu chân ông cũng lội gần khắp vùng I. “Bố Thản” cũng sắp đến tuổi về hưu. Cuối cùng là hạ sĩ Sơn- Sơn lo chuyện nấu ăn nên hay lo xa- cá nhiều quá ăn không hết thì đem phơi khô.

-Sắp đổi lên núi rồi ! Sơn nói với tôi.

   Hạ sĩ Sơn cũng thuộc loại lính khá kỳ cựu trong trung đội nên chu kỳ đổi quân như thế nào thì Sơn kinh nghiệm lắm. Đồng bằng ra biển, chặng thứ ba thì lên núi chứ có nơi nào khác đâu!  Chúng tôi đóng một nơi vài ba tháng là hoán chuyển thôi. Sơn kinh nghiệm rằng lên núi chỉ lo thủ chốt cho kỹ nên không có “mưu sinh” như ở đây được. Thể là hai tuần nay tôi bắt đầu để ý lên hướng núi. Ban đêm hướng Trường Sơn, núi đang bị cháy liên tục, làn lửa dài như con rắn vàng cứ cháy leo lét.

    – Ngày mai có tiếp tế rồi !

    Tiếng Sơn nhắc nhở làm tôi thấy vui hẳn lên. Mà thật sự ai nấy trong đơn vị này đều cùng chung một tâm trạng giống tôi. Ai cũng mong ngày tiếp tế mau về lại. Đóng quân lâu ngày ở một nơi hoang dại anh lính nào cũng mong mau thấy lại bóng dáng chiếc xe tiếp tế của tiểu đoàn. Mặc dầu chiếc xe tiếp tế nó đã “cũ kỷ, ọp ẹp” nhưng lại là niềm vui trong đơn vị. Cách hai tuần nó về một lần tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi mường tượng mỗi khi nó về lại mang theo một ít “hơi hám” của chốn thị thành! Diên Sanh, Mỹ chánh ư? Hay Phò Trạch? mà nếu là Huế thì càng tốt. Cách Huế không bao xa mà hình ảnh phong kẹo mè xững, cái tên Song Hỹ giờ tôi nghe sao quá xa vời ! Chiếc xe đó còn mang ra chốn này những niềm vui cho lính bằng những cánh thư gia đình hay người yêu của mấy anh lính trẻ. Tôi thì cô đơn hơn- lính mới ra trường – hai mươi mốt tuổi đời, tôi thực sự chưa có mối tình đầu nào làm “hành trang mang vai” để nhớ thương cả!

   Sáng dậy, quả đúng là một ngày hội cho đại đội 2 này. Mỗi trung đội chỉ cắt năm sáu lính ra bãi biển chờ đồ tiếp tế, thế mà khi tất cả tụ lại trên bãi biển cạnh chốt tôi đang đóng thì nghe sao mà ồn ào rộn rã ! Tiếng cười tiếng nói, mày tau- í ới – lẫn tiếng văng tục ‘loạn xà ngầu’. Chúng tôi đóng cạnh bãi biển thì thong thả, đi vài ba bước là đến chỗ đợi. Tôi hướng mắt trông theo sát mép biển về hướng nam. Chiếc GMC vừa đổ hàng xong cho tiểu đoàn ở Ba lăng, nó đang theo mép biển đi ra hướng chúng tôi . Lúc đầu nó chỉ là một chấm đen rồi hình dáng thân yêu của nó cáng lúc cáng rõ dần.

-Xe đến rồi tụi bây ơi !

Có tiếng anh lính nào reo lên. Từ trên xe, trung sĩ nhất Thĩu, hạ sĩ quan tiếp tế đại đội vội nhảy xuống xe. Anh Thỉu dáng người khô khan, nước da ngâm đen, vừa phân phối thức ăn vừa nói lớn để mọi người cùng nghe:

– Kỳ ni đồ ăn tươi là bính ngô và thịt heo thôi nghe.

Thức ăn tươi chia về từng tiểu đội độ nửa ký thịt heo và góc trái bí ngô, chỉ trong ngày đầu là hết sạch. Những thứ còn lại gồm hai ba lon thịt heo hay thịt ngựa của quân nhu, thêm ít ruốc và ‘vị tinh’ ( bột ngọt). Mấy thứ sau này thì phải tiết kiệm, tính toán, ăn làm sao cho đến giáp vòng tiếp tế khác. Gạo thì chia cứ mỗi đầu người- một ngày một ca ‘y-nốc’ (inoxidable) – “đong đầy- gạt sát” , thế là xong, đơn giản lắm !

-A còn một ít thư cho anh em đây ! Ts Thỉu vừa đưa thư vừa lo chuyển đồ cho BCH đại đội.

Giờ mới đến lúc chúng tôi lo chuyện đổi chác thùng phuy cá mà chúng tôi lúc rảnh đi hốt cá hàng đêm tại mấy bàu nước lợ  Sau một lúc kỳ kèo thêm bớt, anh Thỉu chịu đổi thùng phuy cá với 2 ‘tút’ (toutes) thuốc lá Bastos luxe  thế Bastos xanh vì loại Bastos Luxe hút “phê” (effet) hơn.

-Nhưng phải chờ kỳ tiếp tế sau mới có đó nghe ! TS Thỉu hứa hẹn với chúng tôi như vậy.   Gần cả trung đội hì hục một hồi, cuối cùng thùng cá nặng nề cũng lên được trên xe. Tôi thở phào nhẹ nhõm, thà chịu thiệt một ít mà có thuốc chia nhau hút còn hơn ôm hết cá mà ăn thì chỉ có ngồi đây mà gãi sưng phù cả người thôi !

-Nhớ mấy tút thuốc nghe trung sĩ Thỉu, chúc bồ mua may bán đắt, vào chợ Diên Sanh mà ‘thẩy’ (bán vứt) nó đi nghe .

  Chiếc xe GMC chạy rồi tôi còn đứng nói vói theo. Lính xa nhà chia ngọt xẻ bùi, có nhau từng điếu thuốc, thân thiết như anh em, nhất là cùng mang thân phận làm lính sát cánh bên nhau trong thời chinh chiến. Tôi hơi tức cười khi nhớ lại lời nói ngắn gọn ” kiểu nhà binh ” khi chúng tôi nghe chung một chiểc radio bé nhỏ: -“Mở cái đài -sang ngang !-không Thúy …thì Tuyền !  Tôi vừa cười một mình nhớ đến những tiếng nói hồn nhiên chất phát từ mấy người lính trẻ mới về đơn vị vừa ngó theo bóng chiếc xe tiếp tế chạy xa dần rồi khuất hẳn trong màn gió cát vàng nhạt. Chúng tôi mang thức ăn vừa được tiếp tế về lại chốt. Lòng tôi như ấm lại khi nhìn mấy miếng bính ngô trồng vừơn nhà ai trong Diên sanh, mấy miếng lá chuối còn xanh gói miếng thịt của con heo nào đó  được nuôi lớn từ ruộng đồng Hải lăng cùng bao gạo đã vơi bớt. Vui nhất cho ai có thư nhà. Riêng tôi thì không, lính độc thân đúng nghĩa. Hôm nay Lợi, Phê. Sơn lo vá lại mấy mãng lưới rách đã từng bị chôn vùi trên bãi biển này. Tối nay chúng tôi sẽ đi kéo tôm tại mấy bàu nước lợ gần quanh đây.

Sự yên lặng lại trở về trên một làng hoang vắng có tên Vĩnh Huề. Cứ thế ban mai tôi có dịp chiêm ngưỡng cảnh bình minh huy hoàng trên mặt biển, rồi chiều về tôi lại ngắm ánh tà dương từ từ khuất dạng sau dãy Trường Sơn, phương đó đang ngóng chờ những gót giày đơn vị chúng tôi nay mai trở lại. Giờ đây ngoài kia biển một màu xanh ngắt, chẳng còn ai đứng đó ;  biển mãi quạnh hiu như đang đợi dân về …BIỂN NHỚ !

đinh trọng phúc
Jan 26/2013

This entry was posted in Truyện Ngắn, Văn Học and tagged . Bookmark the permalink.

Comments are closed.