Niên khóa 1972-1973, lớp 11B1 trường Petrus Ký chúng tôi học môn Sử với thầy Nguyễn Minh Nhựt. Trước khi học, được nghe nói thầy trẻ, mới từ Côn Đảo về đất liền.
Ngầu thiệt! Ăn mặc mốt. Áo sơ-mi bó, tay dài xắn lên. Diện kính mát đen. Da cũng còn sậm màu nắng! Tui còn nhớ, bước vô lớp, tháo cặp kính mát, nhìn chúng tôi đứng chào, ông cũng đứng nghiêm kiểu lính đưa tay chào lại rồi rộng miệng cười nói các em ngồi xuống đi, các em ngồi, tui đứng. Tui không đứng làm sao dạy được, nghề tui phải đứng nhiều, ngồi ít. Nhiệm vụ của tui là phải đứng cho các em ngồi!
Rất nhanh, ông bước tới bàn lấy viên phấn viết lên bảng: Chương Trình. Rồi quay lại hỏi: có em nào biết chương trình năm nay mình học gì không?
Cả lớp nhìn nhau. Vài bạn lên tiếng. Ông viết theo các bạn. Người này bổ túc ý của người kia, một loáng sau chương trình trọn năm được viết đầy đủ trên chiếc bảng xanh rộng.
Tôi còn nhớ, thầy Nguyễn Minh Nhựt sau đó nói rằng, các em thấy không, các em biết hết rồi, tui chưa chắc viết rõ được như các em. Tui dạy các em là tui đi cùng với các em tới kho kiến thức, các em sẽ tự lấy kiến thức!
Ông nói thêm: trong lớp này, các em là trò, tui là thầy. Ngoài đời, các em là trò, tui cũng là trò.
Nói sao làm vậy, ông dạy rất thoáng. Cho biết trước bài sẽ học tuần sau, dặn đọc trong sách gì, chương nào… Tới giờ, giới thiệu bài học xong, hỏi một số câu đào sâu, rồi quăng viên phấn, xoa tay nói mình xong hết rồi, bây giờ thảo luận. Mục tiêu là thảo luận sâu vào bài học, nhưng thời đó chiến cuộc đang khốc liệt và một số nơi súng đạn lan vào thành phố, các thảo luận rồi cũng liên hệ tới Quốc Gia hay Cộng Sản, Hòa Bình hay Chiến Tranh, Xây Dựng đất nước hay Thống Nhất đất nước…
Tại lớp tôi, các cuộc thảo luận xảy ra rất thường trong giờ dạy của thầy Nhựt. Các bạn cùng lớp L.T. Phương, P.T. Dũng, N.N. Thụ, N.V. Thành, V.T. Trung, L.T. Trực, P.T. Oai… chắc còn nhớ những cuộc thảo luận rất nóng. Nóng là nói về nội dung, chớ rất cầu thị, lắng nghe nhau nếu nói về thái độ. Chỉ có lớp của thầy Nhựt mới có thảo luận nhiều với các đề tài thẳng thắn như vậy.
Thầy Nhựt để dấu ấn trong tôi bằng hai quan điểm. Quan điểm về ông Trương Vĩnh Ký, người mà ngôi trường Thầy đang dạy, nổi tiếng là trường số một của Sài Gòn lúc đó, mang tên. Thầy nêu lên rằng ông Trương Vĩnh Ký là nhà bác học, nhà nghiên cứu, rất có công phát triển chữ Quốc Ngữ, có tâm với nền văn hóa dân tộc. Những điều đó đã rõ. Tuy nhiên, trong thời Pháp mới chiếm Việt Nam, vua Hàm Nghi vì chống Pháp phải bôn ba Tân Sở, ngai vàng được Pháp giao cho vua Đổng Khánh, mà Trương Vĩnh Ký nhận làm thầy dạy cho vua Đồng Khánh thì có tổn hại cho công cuộc kháng Pháp không? Lúc đó tôi hỏi biết đâu ông Trương Vĩnh Ký nhận lời vì thấy thời cơ chống Pháp đã qua, ông muốn cùng triều đình, cùng vua Đồng Khánh, cùng người bạn là toàn quyền Paul Bert xây dựng nước Việt Nam tân học, phát triển kinh tế! Tầm kiến thức của Trương Vĩnh Ký có thể cho ông nhận thức đó. Thầy Nhựt nói đó là những đề tài Sử học cần nghiên cứu thâm sâu với cứ liệu thuyết phục. Quan điểm này cũng là quan điểm của thầy Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn, giáo sư Triết.
Quan điểm thứ hai được ông diễn tả rõ ràng: không ai muốn Việt Nam bị chia cắt, nhưng khi bị đặt trong tình thế phân đôi đã rồi, Việt Nam nên hòa bình để phát triển kinh tế. Các em nên nhớ, sử Việt toàn viết về chiến tranh, nhưng cuộc sống thiệt là kinh tế và kỹ thuật.
Nêu lên hai quan điểm trên, tôi không có ý thảo luận về quan điểm đó nơi đây. Mục tiêu của đoạn viết là nói lên tinh thần phê bình, cách suy nghĩ độc lập, “out of the box” của các nhà trí thức cùng môi trường thông tin đa nguyên và khai phóng thời đó. Những vị này, với cá tình độc lập, tư tưởng phóng khoáng, chuộng công bằng, trung thực… đã dạy tôi nhiều điều ngoài những bài học trong chương trình.
Sau khi thi đậu Tú Tài IBM, kỳ thi Tú Tài trắc nghiệm chấm điểm bằng máy tính IBM, trong một chuyến về thăm trường Petrus Ký, tình cờ tôi gặp Thầy và hai thầy trò ngồi góc đường Nguyễn Hoàng – Cộng Hòa (nay là Trần Phú – Nguyễn Văn Cừ) gặm bánh mì thịt uống cà phê. Lúc đó hai thầy trò hẹn sẽ gặp nhau tại Paris: tôi đang chuẩn bị đi Pháp, còn ông đang chờ quyết định cho chuyến đi. Chuyến đi tiếp nối công trình nghiên cứu cao học về ngục tù Côn Đảo được ông tiến hành trong thời gian làm Hiệu Trưởng ngoài đó.
Biến chuyển tháng tư năm 1975 như cơn bão. Nó thay đổi nhiều thứ, và sức càn quét của nó được hợp lực thêm bởi những cơn bão tiếp theo sau ngày thống nhất. Học tập cải tạo, đánh tư sản, đánh văn hóa trước 1975… Mỗi cá nhân như chiếc lá trong cơn lốc dạt về nơi xa lắc nhau dù vẫn còn sống chung trong thành phố.
Năm 1994, chân ướt chân ráo về Việt Nam, tôi cộng tác với một công ty tư nhân, do một người xuất thân kháng chiến lập nên. Thật tình cờ, ông đang làm việc trong đó, chuyên dịch văn bản tiếng Pháp.Thầy Nguyễn Minh Nhựt vốn xuất thân trường Pháp, thủa xưa từng kể về một cô đầm đẹp mà kiêu sa không hợp tính tự do chân phương của thầy. Lần gặp đó, chính ông là người kêu tôi trước, và phải đôi phút ngỡ ngàng tôi mới nhận ra thầy cũ. Ông đã quá thay đổi. Không chỉ bạc trên tóc mai, các nét rắn rỏi, tươi vui ngày trước biến mất, tác phong nhanh nhẹn, vốn là hình ảnh của ông trong tôi, cũng không còn. Ông thầy gốc trường Pháp hào hoa xông xáo đã thành phong trần cam chịu!
Tình thân lại gặp tình thân, ông biểu tôi kêu bằng anh, tôi quen rồi vẫn kêu ông là Thầy, ông xưng Anh với tôi. Dù bị cuộc sống vùi dập, ông vẫn giữ vẹn lòng tự trọng, cứng cỏi và tốt bụng. Tính bạt mạng ngày xưa nay chuyển thành bất cần đời. Bất cần theo nghĩa không ai dùng tiền bạc uy hiếp hay dụ dỗ được ông. Trong nhiệm vụ chuyên môn dịch thuật của mình, ông làm việc cẩn mật. Ngày kia, đứng trên lan can lầu hai của công ty, nhìn mấy xe tải chở khoảng chục chậu kiểng to và quí về chất trong sân, ông nói người nghèo còn nhiều quá, ngó họ xài tiền mà đứt ruột. Mình làm trong công ty, mình biết có lời đâu, toàn lỗ. Tiền không nguồn gốc rõ ràng, mình lãnh lương từ đó cũng bực bội! Chiều hôm đó, ông kéo tôi về căn nhà ở tạm bên quận tư, trong con hẻm đường Tôn Đản, kể về tình đời. Em biết anh mà, anh chỉ thích làm ngành giáo dục thôi, mà không theo được, phải bỏ. Buồn lắm em, làm công ty này là chuyện chẳng đặng đừng. Em à, anh từ ngày đi dạy sống chân thật, lo làm việc có ích lợi cho học sinh, tiếp đỡ người khốn khó, lỡ bước, mà sao gặp toàn chuyện phụ bạc, đắng cay? Con người thời buổi này, kiến thức thiệt, tình nghĩa thiệt lòng không quí, chỉ quí lập trường môi miếng. Chuyện đời anh không hiểu nổi, không hiểu họ nghĩ cái gì! Thôi, đừng nghĩ tới nữa, từ đây anh quên hết…
Vài tuần sau đó thầy Nhựt nghỉ việc công ty. Dù rất cần đồng lương, ông dứt khoát nghỉ khi bị coi thường.
Năm năm trước, gặp lại Thầy. Ông vui vì hai con đã có chỗ làm. Tụi nó cực, nhưng thôi, có chỗ làm là được rồi. Tôi nói sẽ chuyển ông các tài liệu về Sử và xã hội cho ông đọc đỡ buồn. Ông nói: Thôi em. Anh bây giờ sống vui, khỏe, lo làm việc lặt vặt giúp cô, tâp thể dục đều. Anh không nhớ Sử, không nhớ tiếng Pháp. Quên hết, quên hết rồi, em à! Thời này muốn mình quên thì mình quên cho nó khỏe. Tôi nhìn kỹ, quả thật, ông mập mạp hơn, nhiều nét nông dân và lao động, không chỉ trên gương mặt mà cả trong tác phong, cách nói chuyện. Trong hình thức nông dân quê mùa đó, nói chuyện nhiều mới thấy bật ra từ một góc khuất: em nói anh nghe coi, nước mình giàu hơn, có kỹ thuật hơn, mà trí thức thứ thiệt còn bao nhiêu?
Buổi sáng nhận được tin ông mất đột ngột, tôi gọi cho người bạn hỏi cách tổ chức tiễn Thầy, thì biết anh bạn đang trên đường ra Bà Rịa dự hỏa táng rồi thả tro xuống sông ngay trong ngày! Có bạn nói tội nghiệp Thầy, đám tang tổ chức gấp quá. Tôi thì tiếc, cho riêng cuộc đời ông, và cho xã hội nữa, bởi vì ai biết được bao nhiêu con người được đào tạo đầy đủ, có lòng, lương thiện đã bị phung phí.
Ông ra đi không bệnh tật đau đớn là có phước rồi! Thầy Nhựt của tôi chắc không màng đám tang to hay nhỏ. Còn có nghĩa gì đâu trước đất trời sông nước cỏ cây, khi ông đã vào chu kỳ tuần hoàn vật chất vĩnh hằng…
Lê Học Lãnh Vân
@ petrukyaus
(ngày 01 tháng 4 năm 2020)