Truyên ngắn

NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY

Khoảng giữa năm 1992, dù đã sang tỵ nạn ở Mỹ gần một năm rồi, nhưng tôi vẫn chưa có công ăn việc làm. Hồi đó,  những người Việt sang định cư ở Nam Cali theo diện tỵ nạn H.O khá đông, cho nên tìm được một việc làm không phải dễ . Một hôm tôi theo các bạn thuộc lớp tuổi “ngũ thập nhi tri thiên mệnh” đến Hollywood để ký hợp đồng đóng phim. Người đại diện hãng phim(?) giải thích là cần một số đông đóng vai “quần chúng” trong một phim chiến tranh. Họ không đòi hỏi những ứng viên biết bắn súng, có dáng  kiêu hùng như  một GI trong phim chiến tranh của Mỹ. Cũng không cần người có dáng đẹp trai hiên ngang như tài tử John Wayne. Và dĩ nhiên cũng không cần người biết tiếng Anh lưu loát để đối thoại ở phim trường, hay trên màn ảnh.

Theo lịch trình làm việc, ngày hôm sau chúng tôi trở lại phim trường để thợ may lấy ni tấc thân hình, chuẩn bị may áo quần, nón mũ …Đã từng là quân nhân VNCH, chúng tôi nêu thắc mắc vì sao đóng phim đánh trận không được cấp phát mũ sắt mà phải đội mũ vải? Họ giải thích rằng chúng tôi sẽ đóng vai những anh “bộ đội GPMN”,  một “lực lượng vũ trang anh hùng” xuất phát từ nhân dân Miền Nam, nên sẽ đội mũ tai bèo, với khăn rằn quấn cổ…! Nghe lời giải thích đó, chúng tôi tức giận bỏ về, không màng đến cái “hợp đồng đóng phim”- mới nghe qua tưởng béo bở – sắp ký với bọn làm phim thân cộng  này!

Một thời gian sau, theo lời chỉ dẫn của bạn hữu, tôi ghé vào văn phòng bảo hiểm của anh bạn học cũ, nằm trên đường Brookhurst, chỉ cốt thăm viếng xã giao.  Anh bạn “nối khố” ngày xưa thời sinh viên Sài gòn, đã may mắn sang đây từ  năm 1975, vào những ngày cuối tháng Tư, trước ngày Miền Nam lọt vào tay cộng sản. Mười năm sau, anh trở thành chủ nhân của một văn phòng bảo hiểm, với hai cô thư ký trẻ tuổi xinh đẹp. Tôi ngỏ ý xin anh giúp cho một công việc làm, nhưng anh khéo léo từ chối! Trong khi ngồi nhìn vẩn vơ trong văn phòng bừa bộn, tôi thấy một bức tranh để ở  một góc, bám đầy bụi bặm. Tôi đề nghị trang trí lại văn phòng, lau chùi sạch sẽ bức tranh và treo lên ở một vị trí trang trọng.

Đó là một bức tranh cổ, ghi lại sự tích Việt vương Câu Tiễn vào cuối đời Xuân Thu bên Tàu, bị Ngô Phù Sai đánh bại. Vợ chồng Câu Tiễn đành phải đến ở nước Ngô làm con tin. Họ phải ăn cám bã, rau dại; mặc thì toàn quần rách áo nát, cam chịu nhục nhã. Có lần phải nếm phân đoán bệnh cho Ngô Vương. Sau ba năm, Phù Sai mới tha cho Câu Tiễn về đất Việt. Từ đó, Câu Tiễn quyết chí tự cường để trả mối thù lớn.  Ông sợ mình sẽ ham thích cuộc sống an nhàn trước mắt, lãng quên ý chí báo thù, nên tự sống một cuộc đời khắc khổ. Tối ông ép mình ngủ trên đống rơm có gai nhọn; cạnh đó treo một túi mật đắng. Trước mỗi bữa ăn, ông nếm túi mật để không quên nỗi nhục nhã đắng cay trong những ngày bị lưu đày ở  đất Ngô. Kết quả của ý chí “nằm gai nếm mật” đã khiến Việt Vương đánh bại Ngô vương Phù Sai và giết đi, báo thù cho nước Việt.

Riêng vào buổi sáng hôm ấy, sau khi treo bức họa “Nằm Gai Nếm Mật” lên tường của văn phòng bảo hiểm, tôi ngồi ngắm mãi, định mua bức tranh. Nhưng cuối cùng tôi đành bỏ cuộc vì không đủ tiền, mặc dù vừa nhận được một tấm check hai mươi đô la – tiền công “trang trí nội thất”- do ông bạn cũ – chủ văn phòng bảo hiểm trả!…  Mãi đến một năm sau, khi có công ăn việc làm với đồng lương khấm khá, tôi trở lại, cốt mua cho kỳ được bức tranh. Tôi muốn treo nó ở phòng đọc sách trong nhà, để hàng ngày nhìn nó, nhớ lại hình ảnh những ngày tháng “nằm gai nếm mật” trong trại tù Cộng sản. Tôi không muốn những kỷ niệm đắng cay năm xưa, rồi đây theo thời gian sẽ phai tàn theo ngày tháng … Nhưng tôi vô cùng thất vọng. Đã có kẻ cảm phục ý chí kiên trì “ngậm đắng nuốt cay” của ông vua thất trận xứ Việt bên Tàu, nên đã mua bức tranh trước tôi!.

* **

Trở lại bốn mươi năm trước đây, khi miền Nam rơi vào tay cộng sản,  chúng tôi bị đưa ra Bắc, giam trong trại “cải tạo” Thanh Cẩm. Suốt những năm gian lao khổ ải đó, chúng tôi bị buộc phải lao động cực nhọc; một ngày chỉ được ăn hai bữa, trưa và tối. Nhưng cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, nhất là về mùa đông giá rét trên thượng nguồn sông Mã. Ba ngày chúng tôi mới có một chén cơm ; còn những những ngày khác phải ăn bắp ngô cứng như đá; ăn bo bo, khoai lang nhỏ như đuôi chuột và nhất là khoai mì công nghiệp, chứa nhiều độc tố.   Các loại thực phẩm kém dinh dưỡng ấy lại được phát cho tù nhân rất hạn chế, theo chủ trương “cho ăn vừa đủ để lao động sản xuất” như chúng tôi đã được “học tập” !.

Mỗi buổi sáng, cán bộ công an dẫn chúng tôi ra “hiện trường lao động” với bao tử trống rỗng, khiến chúng tôi hoa mắt, chồn chân…để làm những công tác  khổ sai. Mùa hè, tù nhân phải lên núi vác đá về xây thêm nhà tù, dưới ánh nắng đổ lửa, hừng hực của vùng núi đá xứ Thanh. Mùa đông, từng toán thay phiên nhau xuống sông Mã vác những cây luồng đã ngâm sẵn,  về cho công tác xây cất. Trong không khí lạnh buốt của miền thượng nguồn sông Mã vào buổi sớm cuối năm, anh em chúng tôi thay phiên nhau xuống nước, tối đa khoảng mười lăm phút. Vì quá lạnh nên mọi người ngồi quanh đống lửa, hút thuốc lào cho ấm bụng. Bởi đói lả, cho nên khi khói thuốc lào tác động vào thân thể yếu đuối,  có người bị ngất xỉu, ngã vào đống lửa. Nếu không có bạn bè  cứu kịp, có lẽ cán bộ Trại sẽ báo cáo “chết vì tai nạn lao động” ngày hôm ấy…

Đối với những “trại viên” được thân nhân vào thăm nuôi, họ có thể tự túc trong bữa ăn, không cần thực phẩm do trại phát. Cho nên những trại viên này thường biếu phần khoai mì cho bạn đồng tù kém may mắn vì không ai thăm nuôi. Bởi lòng vị tha, đùm bọc nhau trong cảnh tù đày như thế , nên thỉnh thoảng tôi có thể dành được một vài khẩu phần khoai mì. Tôi đã  chế biến chúng bằng cách tán nhỏ, tồn trữ trong bình nhựa, phơi ở sân sau phòng giam. Đó là cách “mưu sinh thoát hiểm” mà tôi đã áp dụng qua bao năm trong trại tù khổ sai Cọng sản xứ Thanh.

Hằng ngày đi lao động, khi bắt được những con cóc, nhái, kỳ nhông, rắn, rết…là tôi nướng ăn để cầm hơi  buổi sáng. Lúc trưa về đến trại, vài củ khoai lang, hoặc một trái bắp ngô… không lấp đầy cái bao tử trống rỗng từ đêm hôm trước, nên phải bổ túc bằng món “chao tự chế”. Nó vừa chua, vừa nặng mùi…nhưng cũng đủ cho tôi sống còn để có ngày trở về với gia đình ở Miền Nam!  Nhưng cũng từ ngày cố gắng chịu đựng “ngậm đắng nuốt cay ” ấy đã khiến tôi rất dị ứng  với những món ăn nặng mùi. Nhất là món mắm mà tôi sẽ phải đối diện trong những bữa ăn đạm bạc khi còn ở Việt Nam, sau khi ra khỏi nhà tù “cải tạo” của CS!

Hằng ngày đi lao động, khi bắt được những con cóc, nhái, kỳ nhông, rắn, rết…là tôi nướng ăn để cầm hơi  buổi sáng. Lúc trưa về đến trại, vài củ khoai lang, hoặc một trái bắp ngô… không lấp đầy cái bao tử trống rỗng từ đêm hôm trước, nên phải bổ túc bằng món “chao tự chế”. Nó vừa chua, vừa nặng mùi…nhưng cũng đủ cho tôi sống còn để có ngày trở về với gia đình ở Miền Nam!  Nhưng cũng từ ngày cố gắng chịu đựng “ngậm đắng nuốt cay ” ấy đã khiến tôi rất dị ứng  với những món ăn nặng mùi. Nhất là món mắm mà tôi sẽ phải đối diện trong những bữa ăn đạm bạc khi còn ở Việt Nam, sau khi ra khỏi nhà tù “cải tạo” của CS!

Từ chối ăn mắm, tôi cảm thấy như mình đã phụ bạc tấm lòng yêu quê hương của những người Việt đã sang tỵ nạn ở đất Mỹ này. Bởi khi ra đi, họ đã mang theo văn hoá nước Việt, kể cả những món ăn thuần túy dân tộc đã có từ lâu. Ở miền Bắc với những món ăn đặc biệt thường dùng với mắm tôm như Bún Thang, Bún Riêu, Bún Ốc, Bún Chả… Ngoài ra, còn có món cà pháo chấm mắm tôm, đậu phụ rán chấm mắm tôm. Ở Miền Trung , xứ Huế có  mắm ruốc để nêm trong món bún bò…Riêng ở Miền Nam, đã có các món mắm như: Mắm Và Rau, Bún Mắm. Riêng món Bún Mắn, nay đã là món khoái khẩu của các bà, các cô người Việt khi vào các quán ăn vùng Little Saigon, miền Nam California.

***

Đã gần ba mươi năm, kể từ ngày không mua được bức tranh “Nằm Gai Nếm Mật” tại văn phòng bảo hiểm của người bạn thuở niên thiếu, tôi chẳng hy vọng gì thấy lại  bức tranh đáng quý ấy nữa…Thế nhưng, sáng hôm nay tôi đã thấy lại bức tranh Tàu năm xưa  trên trang nhà điện tử trong máy PC. Tôi ngắm  bức tranh, cảm phục ý chí người anh hùng thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu. Vua Câu Tiễn đất Việt đã bị Ngô Phù Sai đánh bại trận, chịu ngậm đắng cay nuốt cay trong thời gian bị lưu đày trên đất Ngô. Ông đã phải hạ mình nếm phân kẻ thù, mong lấy được lòng tin kẻ thắng trận. Khi được thả về đất Việt ông đã nằm gai nếm mật để nuôi ý chí phục thù. Và cuối cùng vị vua kiên trì ấy đã đánh bại Ngô Phù Sai, giết được kẻ thù, trả được mối hận năm xưa.

Mấy mươi thế kỷ sau, tại đất nước Việt Nam,  chúng tôi – những kẻ “thua cuộc” đã phải ngậm đắng cuốt cay trong các trại tù khổ sai trên ba miền đất nước, cuối cùng đành phải gạt lệ ra đi, sang tỵ nạn ở xứ sở Tự Do này.  Riêng tôi, đã hơn hai mươi lăm năm qua, tôi lặng ngắm thời gian lướt qua cuộc đời, nhuộm bạc mái đầu, đành cám cảnh khi nhớ đến hai câu thơ trong bài “Thuật Hoài” của Đặng Dung:

Quốc thù vị báo  đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

Cụ Phan Kế Bính diễn Nôm như sau:

Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Sống nơi đất tỵ nạn xa xôi này, tôi vẫn hướng về quê cũ. Tôi mong chờ ngày tàn của “bên thắng cuộc” và chắc ngày ấy cũng không còn bao xa….Tôi vẫn luôn khắc khoải tưởng nhớ bầu không khí Tự Do của Miền Nam nước Việt- đã một thời phồn vinh, no ấm mà nay không còn nữa! Và giờ đây, khi ngoái nhìn lại quá khứ, tôi đành tự thán với câu thơ của Thế Lữ:

Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

 Tam Bách Đinh Bá Tâm

This entry was posted in Truyện Ngắn, Văn Học and tagged . Bookmark the permalink.

Comments are closed.