Từ bức ảnh của thầy Lê Mạnh Thát trong lễ tang thầy Tuệ Sỹ
Sống Tự do, ươm mầm hạnh phúc
Chết vô thường, hòa cõi nhân gian
Tuệ Sỹ
Trong bài “Lễ nhập kim quan báo thân Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ – Việt Báo 26/11/23, có bức ảnh thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát đi đầu, tay nâng thiền sàng ngay dưới đầu của thầy Tuệ Sỹ. Bức ảnh này đưa chúng tôi trở lại những ngày tháng giữa năm 1981 ở Viện Phật Học Vạn Hạnh đường Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận. Ở đây tôi đã có duyên gặp thầy Tuệ Sỹ. Nay xin ghi lại ít lời để tưởng niệm thầy.
Cơ duyên
Đầu năm 1981, tôi được thả từ trại tù cải tạo Suối Máu, Biên Hòa, về khu kinh tế mới Gia Ray, Long Khánh. Làm rẫy được nửa mùa, khi bắp bắt đầu kết trái thì tôi bị bệnh ghẻ lở toàn thân. Những con ghẻ lớn mưng mủ, rất ngứa và đau. Thân thể tanh hôi, ban ngày tôi phải ngồi hay nằm trong mùng để tránh ruồi mà ruồi muỗi ở làng kinh tế mới thì khỏi nói. Nhìn những con ghẻ lở loét khắp chân tay, tôi nghĩ đến cái chết – Hơn 6 năm trong tù không chết, về làm lại cuộc đời lương thiện như đảng dạy lại chết vì bệnh ghẻ. Từ ý nghĩ về cái chết, tôi chợt nghĩ đến thầy Lê Mạnh Thát.
Tôi giao du với thầy Thát khi thầy còn là chú tiểu tu ở chùa Linh Sơn Đà Lạt từ năm 1964, gọi là chú Thát, đang học sư phạm triết ở Đại học Đà Lạt và cùng dạy học ở trường Trung học Thăng Long của giáo sư Trần Huy Bích. Chú Thát dạy Pháp văn. Giữa năm 1965, tôi đã cùng chú Thát về Sài Gòn, gọi là đưa tiễn chú đi Mỹ du học. Năm 1974, thầy Thát về nước, dạy ở Đại Học Vạn Hạnh. Tôi từ chiến trường Thừa Thiên vào Sài Gòn, có dịp đến thăm thầy và biết thầy trong khi học các môn triết, nhân chủng, ngôn ngữ đã học y khoa và tốt nghiệp bác sĩ y khoa ở Mỹ. Tôi biết thầy Thát ở Viện Phật Học Vạn Hạnh vì thầy đã nhờ một nữ Phật tử đi thăm nuôi tôi ở trại Suối Máu năm 1980, còn sao thầy biết tôi ở trại Suối Máu thì chuyện dài quá, xin không kể ở đây.
Vì nghĩ đến bác sĩ Lê Mạnh Thát nên tôi bảo em tôi lên chợ Xuân Lộc kiếm mua cho chừng mươi, mười lăm viên trụ sinh. Em tôi mua được 10 viên, tôi uống 3 ngày cho những con ghẻ khô bớt rồi lên Sài Gòn tìm đến bác sĩ Thát. Sau khi coi mấy con ghẻ trên chân tay tôi, thầy bảo: Bệnh ghẻ này dễ chữa, thuốc cũng dễ chế tạo, nhưng y tế của họ đã không làm gì, cứ để dân khốn quẫn vì mấy thứ ghẻ. Loại ghẻ này là do một thứ nấm ở những vùng mới khai hoang. Nó vật mình vì mình thiếu dinh dưỡng. Thầy bảo tôi đi tắm, rồi lấy một chai thuốc dầu (tên đầu là Benzen còn chữ sau tôi không nhớ) bôi khắp thân, từ cổ đến chân. Thầy bảo tôi không đụng vào nước trong 48 giờ. Đêm ấy tôi có cảm tưởng là mình đã gặp thuốc tiên. Thân hết ngứa, hết đau và ngủ một giấc ngon lành tới sáng. Ngày hôm sau cho thầy biết kết qủa, thầy bảo là đã mua được chai thuốc của một bà bán đồ linh tinh trên hè phố và đã chữa cho nhiều người, nay chỉ còn chừng 1/4. Sự hiệu nghiệm của thuốc thật kỳ diệu. Chỉ 2, 3 ngày thì những con ghẻ khô đầu và một tuần sau tróc vẩy, chỉ để lại trên thân tôi những vết tròn nâu thẫm.
Sau khi hết bệnh, thầy bảo tôi ở lại Sài Gòn, chớ về kinh tế mới sẽ vướng lại và thầy dẫn tôi xuống một căn phòng rộng, tầng dưới của một ngôi nhà hai tầng trong sân phía bên trái Viện Phật Học.Thầy bảo đây là phòng của thầy Tuệ Sỹ, nhưng bây giờ thầy ở chùa Già Lam, nên tôi có thể ở tạm.
Cái tên Tuệ Sỹ tôi đã biết từ những năm đầu thập niên 1970, vì đọc sách của ông, đọc tạp chí Tư Tưởng, cơ quan ngôn luận của Đại Học Vạn Hạnh do ông làm chủ bút. Một buổi tối khoảng 9, 10 giờ, thầy Thát xuống gọi tôi lên thư viện. Bước qua cửa thư viện, tôi thấy một nhà sư gầy trong tấm áo nâu bạc màu. Thầy Thát chỉ nhà sư nói: Thầy Tuệ Sỹ. Tôi cúi chào. Thầy Tuệ Sỹ đưa tay kéo tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Thấy thầy Thát đi tới cái soong trên bếp điện, múc ra 3 tô mì, tôi đứng dậy tới bưng 2 tô đem tới bàn. Trong khi ăn mì, tôi nói với thầy Tuệ Sỹ là đã đọc thầy, nay nhờ thầy Thát mới có duyên gặp thầy. Nghe tôi nói, thầy chỉ cười, nét cười tươi, đượm tình thân như đã quen biết từ lâu. Thầy hỏi tôi vài điều về đời sống trong tù cải tạo. Tôi đáp: Ở trong tù thì đói và bị hạ nhục. Ra khỏi nhà tù về kinh tế mới thì mỗi tuần phải lên trình diện công an xã. Lên Sài Gòn chữa bệnh cũng phải tới xin họ. Các thầy tôi không biết sao, chớ những người tù cải tạo như chúng tôi thì biết là đã bị họ đẩy ra ngoài lề xã hội.
Thầy nói: Chúng tôi cũng thế thôi. Cả nước đã trở thành một nhà tù thì số phận mỗi người do cai tù định đoạt. Thấy thầy trầm ngâm yên lặng, tôi đứng dậy cầm 3 cái tô và cái soong ra sân rửa, rồi đi về phòng.
Hai nhà sư trẻ có những nét dáng khác nhau. Thầy Trí Siêu có dáng một thư sinh nho nhã, da trắng môi đỏ tươi, trán rộng với khuôn mặt sáng hiền. Còn thầy Tuệ Sỹ, nhìn ông tôi chỉ thấy đôi mắt sáng sâu thẳm và cái đầu với những nét lạ khó nói, gây nhiều ấn tượng. Thoạt nhìn ông tôi liên tưởng đến bộ mặt của Đạt Ma Sư Tổ. Qua thầy Trí Siêu, tôi biết thầy Tuệ Sỹ đã được Hòa Thượng Trí Thủ bảo lãnh ra khỏi tù về Già Lam để cùng thầy Trí Siêu biên soạn bộ Đại Tự Điển Bách Khoa Phật giáo Việt Nam. Và đêm đêm hai thầy đã miệt mài biên soạn tự điển ở thư viện Vạn Hạnh. Đêm nay tôi được chia một phần mì gói ăn đêm của hai thầy.
Những cái oản xã hội chủ nghĩa
Tôi không muốn trở thành gánh nặng cho thầy Trí Siêu, nên đã mấy lần định về lại Gia Ray, nhưng thầy bảo cứ ở lại viện một thời gian, rồi sẽ kiếm một việc gì đó để có thể bám lại thành phố. Từ đó mỗi tuần thầy Trí Siêu đem xuống cho tôi mấy kí gạo. Trước phòng tôi ở là một bãi cỏ rộng có mấy bụi chuối, trên đám cỏ ấy rau muống mọc tràn lan với những bụi rau dền gai, thành ra tôi đã có một sân rau muống và dền. Đã có gạo và rau, tôi chỉ cần mua một ít tương chao là có thể sống qua ngày. Còn thầy Tuệ Sỹ, ngoài những đêm được gặp thầy ở thư viện khi được chia phần mì gói, thì thỉnh thoảng ban ngày, thầy ghé lại phòng tôi ở để trên bàn cho tôi khi mấy cái oản nếp, khi vài cái bánh ú chay, hỏi tôi một điều gì đó, rồi thầy lại lặng lẽ bước ra cửa, lên chiếc xe đạp tàng tàng, đạp ra đường. Khi ăn mấy thứ này, tôi đoán là thầy đi làm lễ hay ăn giỗ tại nhà một Phật tử, vì có lần tôi thấy thầy mặc áo vàng. Nhìn những cái oản, tôi rất xúc động khi nghĩ cái đầu chứa mênh mông trời đất như thế mà lại để ý đến đến việc lấy phần đem về cho một kẻ cùng đường. Có lần tôi nói điều này với thầy thì thầy bảo: Sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nên tôi nhớ lấy phần về cho anh.
Ở lại viện Phật Học Vạn Hạnh được hơn một tháng, ngẫu nhiên tôi gặp Thái Ngọc Lợi, một bạn tù thân thiết ở trại tù Suối Máu. Lợi được ra tù trước tôi một năm. Lợi cho biết anh ở trong nhóm làm tương chao để kinh doanh của Viện và là người thân thiết của thầy Tuệ Sỹ từ thời thầy còn ở Huế. Qua Lợi tôi biết thêm về tài hoa của thầy Tuệ Sỹ. Anh bảo thầy có tài thư pháp như Vương Hy Chi với nét chữ sắc mà tung hoành. Vì thế vào tháng chạp thầy rất bận rộn khi nhiều chùa ở Sài Gòn, cả chùa ở Huế và Nha Trang nhờ viết câu đối và những đại tự. Thầy đã phải dành một phòng lớn ở chùa Già Lam để viết. Những ngày đó, nếu đến chùa sẽ thấy thầy múa với hàng chục thứ bút nhỏ, trung, và lớn trên giấy đỏ chữ vàng hay đen. Ngoài tài thư pháp, thầy còn là nghệ sĩ dương cầm. Thời ở Đại học Vạn Hạnh tiếng đàn của thầy đã làm điên đảo nhiều nữ sinh viên Vạn Hạnh. Chưa hết, thầy còn là nhà lý số tử vi và là tay cờ tướng ít người thắng nổi. Nghe Lợi kể về những tài hoa của thầy Tuệ Sỹ, tôi cười nói: Trông ông như Đạt Ma Sư Tổ mà nói lên được:
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi.
Rồi lại có thể dùng những ngón tay tạo nên âm thanh thánh thót trên phím dương cầm, còn Đạt Ma chỉ diện bích chớ có làm thơ chơi đàn được đâu.
Sau khi thầy ra đi, một sinh viên Vạn Hạnh, quen thân với thầy từ thời còn ở Huế là ông Trần Hữu Thục, đã viết bài “Thích Tuệ Sỹ, khuôn mặt tiêu biểu của văn hóa Việt Nam” trong đó có đoạn ông kể: “Tôi được nghe Tuệ Sỹ chơi tấu khúc “Piano Sonata 14″ nhiều lần ở trong phòng thầy tại Đại Học Vạn Hạnh cùng với nhiều ca khúc thời thượng khác thuở đó: Diễm Xưa, Gọi Tên Bốn Mùa, Nắng Thủy Tinh, Mùa Thu Chết…Thầy đàn rất hay, nhuần nhuyễn và đam mê. Những ngón tay dài, nhỏ nhắn của thầy chạy thoăn thoắt trên phím đàn piano trông rất điệu nghệ, đến nỗi Quỳnh Thu, một cô bạn gái của tôi, sinh viên Vạn Hạnh, thỉnh thoảng lại nài nỉ tôi dẫn cô đến phòng để nghe thầy đánh đàn. Thầy bảo, Quỳnh Thu có đôi mắt rất đẹp. Một cô bạn khác, Phương Huệ, nữ tu xuất Công Giáo, bạn cùng lớp với tôi, cũng thế, lâu lâu lại ghé đến, yêu cầu thầy đàn. Phương Huệ khen hai bàn tay thầy xinh xắn dễ thương”. Đọc đoạn này tôi nhớ lại những lời của Lợi ca ngợi tiếng đàn dương cầm của thầy ở Viện Phật Học Vạn Hạnh năm 1981.
Tô Đông Pha với Lư Sơn
Trong những buổi tối được chia phần mì gói, tôi được nghe thầy Trí Siêu kể nhiều chuyện ở Mỹ. Nhưng bây giờ tôi chỉ còn nhớ chuyện trái ổi Việt Nam. Thầy nói những ngày ở Madison thầy thường hình dung những trái ổi trong khu vườn ở Việt Nam, cảm mùi thơm của ổi và rất thèm ổi. Chợ Mỹ không có ổi. Khi về Sài Gòn, ông đã ra chợ Trương Minh Giảng mua mấy trái ổi lớn, đem về phòng trên lầu Đại Học Vạn Hạnh. Nhìn trái ổi bóng loáng, nhưng ông không còn cảm được mùi thơm như ở Mỹ và cũng mất cảm giác thèm ổi khi trái ổi chỉ cách ông mấy gang tay, nên ông đã để mấy trái ổi làm cảnh trên bàn.
Nghe thế, thầy Tuệ Sỹ cười nói: Chẳng lẽ trái ổi của Ba Thát thành Lư Sơn của Tô Đông Pha. Thầy Trí Siêu bật cười lớn, tiếng cười ròn rã trong đêm giữa rừng sách của thư viện. Mấy hôm sau tôi tới nhà một người bạn ở gần Long Thành, thấy nhà anh có một vườn ổi mấy chục cây, tôi đã hái một giỏ đem về cho hai thầy.
Thằng bé kia là thằng nào
Một lần tôi hỏi thầy Tuệ Sỹ về tương lai của Phật giáo dưới chế độ Cộng sản. Đề tài này thầy nói nhiều. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ mấy ý chính là đảng Cộng sản muốn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa phải Mac-xit hóa văn hóa Việt Nam. Làm việc này họ đụng phải nguồn văn hóa Phật giáo trong máu văn hóa dân tộc nên phải tiến hành hủy diệt Phật giáo để đưa dòng máu Mac-xit vào con người mới xã hội chủ nghĩa. Dưới chế độ chuyên chính vô sản ở miền Bắc, chỉ 20 năm, đảng Cộng sản đã hủy diệt Phật giáo dễ dàng và những người trẻ miền Bắc đã không còn nghe và biết Phật giáo là gì. Vì thế, sau 30 tháng 4, 1975, trong mùa Phật Đản, có Phật tử đã kể lại là mấy anh bộ đội đi qua một ngôi chùa đã chỉ vào hình Đức Phật hỏi: Thằng bé kia là thằng nào?
Sau khi chiếm miền Nam, họ tính ứng dụng những thuật và chính sách họ đã thực hành thành công ở miền Bắc. Nhưng họ đụng phải một vấn đề dội ngược là chính họ bị bùng vỡ tự thân. Vì xã hội miền Nam, con người miền Nam, cái cửa của miền Nam mở ra thế giới đã làm cho dân miền Bắc, đảng viên, bộ đội của họ sáng mắt thấy sự chậm tiến của miền Bắc, thấy sự dối trá của đảng. Trước một một xã hội phong phú với con người đẹp nết, cư xử lễ độ văn minh của miền Nam đã khiến Lê Duẩn phải chống chế bằng những lời yếu ớt là sự giàu có của miền Nam đã phải mua bằng máu! Khi nghe mấy lời này, cán bộ cộng sản vào miền Nam đã tự nói với nhau: Ai mua bằng máu. Chúng ta phải mua bằng máu chớ sao lại miền Nam?
Việt Dương
Đọc toàn bài:
Từ bức ảnh của thầy Lê Mạnh Thát trong lễ tang thầy Tuệ Sỹ