TÌNH QUÊ HƯƠNG QUA THƠ NGUYỄN VÔ CÙNG
Trong suốt cả một thời niên thiếu, tôi không có chút ý niệm gì về “quê hương” – hiểu theo nghĩa đó là nơi mình sinh ra và lớn lên. Tôi không có cái diễm phúc được tắm mình trong một dòng sông, được chơi đánh đáo, đánh quay dưới gốc đa hoặc bụi tre đầu làng, được thả diều trên những cánh đồng thênh thang lộng gió, được trèo lên cây khế trước sân nhà để hái trái mỗi ngày… Tôi cũng không được chìm đắm trong những cuộc tình thơ mộng với những hẹn hò đôi lứa nơi chốn đồng quê.
Lúc lớn khôn, tôi quan niệm mỗi một người dân Việt đều có hai quê hương : một quê hương nhỏ là nơi chôn nhau cắt rốn của mình và một quê hương lớn là Việt Nam. Tôi có một nỗi bất hạnh – là chỉ biết quê hương nhỏ của tôi qua sách vở, thơ ca, qua lời Mẹ kể. Tôi chưa được bước chân vào trường học thì quê hương nhỏ của tôi bị bỏ lại bên kia bờ Bến Hải. Đến khi bước vào tuổi trung niên thì quê hương lớn đã xa cách nghìn trùng.Thuở ấy, mỗi lần nghe Thái Thanh hát bài “Quê Nghèo” của Phạm Duy, tôi vô cùng thổn thức và muốn khóc qua những dòng nhạc não nùng :
“Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi. Ruộng khô có những ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người bừa thay trâu cày…”
Mãi đến sau này, đọc tác phẩm “Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn” của Tạ Tỵ, tôi mới biết “Quê Nghèo” chính là Quảng Trị. Tôi muốn nói đến Quảng Trị, vì Quảng Trị là quê hương của bạn tôi – nhà thơ Nguyễn Vô Cùng, tác giả thi tập “Vườn Xưa”. Quê hương đâu chỉ là chùm khế ngọt, con diều biếc, cầu tre nhỏ v.v…, mà là tất cả tình tự dân tộc. Hầu như trong những bài thơ của anh trong thi tập này, tình quê hương đã vượt lên trên hết ; bởi vì tuổi thơ của anh đã gắn bó với Quảng Trị: trường học, sân ga, tiếng còi tàu, sân nhà, khu vườn nhỏ, đồi sim tím, cỏ may, truông dài cát trắng… Tuổi thơ của anh, theo tôi – đó là một hạnh phúc, vì anh đã sống trọn vẹn với nó :
Cuộc sống êm trôi như làn gió nhẹ
Đất và người quyện chặt mối tình quê
Mặt đất rưng rưng mỗi chuyến đi về
Sân ga nhỏ còi tàu vương vấn lạ !
(Quê Tôi – trang 67)
Nhưng rồi cuộc sống êm đềm ấy không còn nữa. Quê hương Quảng Trị của anh đã bị tàn phá bởi chiến tranh trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, tất cả đều hoang tàn đổ nát :
Khói lửa ngập trời, tang thương khắp nẻo
Để “Mùa Hè Đỏ Lửa” đến ngàn sau
“Đại Lộ Kinh Hoàng” chất ngất niềm đau
Cho hoang mạc về thay thành phố nhỏ
(Quê Tôi – trang 68)
Là một cựu Sĩ Quan QLVNCH, tác giả không thoát khỏi vòng lao cải của Cộng Sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Những buổi chiều nơi trại tập trung, tác giả đã mơ về quê cũ :
Dấu sỏi đá hằn chân người rệu rã
Bước lưu đày đêm tối mịt mù giăng
Chiều bên đồi nhìn sương khói xa xăm
Mơ về thuở sân trăng vườn hoa nhỏ
(Quê Tôi – trang 69)
***
“Vườn Xưa”! Hai tiếng ấy gợi cho ta một sự hoài niệm không rời về một quê hương đã nghìn trùng xa cách, một quê hương chỉ còn lại trong tâm tưởng – để rồi trong những buổi chiều cô quạnh nơi đất khách, tác giả đã ngậm ngùi :
Ôi những chiều xưa những biển dâu
Nhớ chiều nghe lịm những niềm đau
Ở đây chỉ thấy chiều cô quạnh
Giọt nắng chiều nay ngấn giọt sầu!
(Những Khúc Chiều Quê – trang 47)
Và xót xa khi nhớ lại thời thơ ấu :
Có những đồi sim với cỏ may
Hái sim cùng bạn nhớ bao ngày
Cỏ may đan kín thời thơ dại
Sao xót xa mình mãi tới nay?
(Có Một Khung Trời – trang 24)
Thời thơ ấu ấy thật là đẹp. Nguyễn Vô Cùng chào đời và lớn lên tại làng Thạch Hãn, có dòng sông mang cùng tên, dòng sông mà anh thường bơi lội đùa giỡn với bạn bè – dòng sông tuổi nhỏ:
Lớn lên đã thấy bên mình
Một dòng sông ấp ủ tình quê hương
(Chiêu Niệm Một Dòng Sông – trang 32)
và phẫn nộ khi nhà cầm quyền Cộng Sản cho ngăn sông để làm đập dẫn thủy, sử dụng sức lao động của người dân với kỹ thuật thô sơ non kém, làm mất đi cái hiền hòa thơ mộng nguyên thủy của dòng sông, lại còn gây nên cảnh lũ lụt thường xuyên cho một số làng mạc vùng đồng bằng :
Ngăn sông đắp đập ai bày
Cho bao uất nghẹn dâng đầy nguồn sông
(Chiêu Niệm Một Dòng Sông – trang 33)
***
“Vườn Xưa” còn có một ý nghĩa khác, đó là tâm hồn hoài cổ của tác giả, do đó, ta không lấy làm lạ, trong “Vườn Xưa”, tác giả đã sử dụng phần lớn thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật. Ngoài ra, tác giả còn dịch “Những Bài Thơ Trong Truyện Kiều” và thơ Đường từ nguyên bản chữ Hán, mà trong phạm vi hạn hẹp của bài này, tôi xin phép không đề cập đến.Thơ Đường Luật là một thể thơ khó làm, vì luật tắc nghiêm ngặt cũng như bố cục chặt chẽ của nó. Tinh túy của thơ Đường luật ở chỗ chỉ với 8 câu gồm 56 chữ, gói trọn được cả một đề tài. Thể thơ này không khô khan gò bó như nhiều người đã nghĩ, bằng chứng là chúng ta đã bắt gặp nét u trầm trong thơ Bà Huyện Thanh Quan – và Chu Mạnh Trinh đã thể hiện nét tài hoa, lãng mạn trong một số bài. Gần gũi với chúng ta có Hàn Mặc Tử, mặc dù bỏ làm thơ Đường Luật để theo hẳn phong trào Thơ Mới, nhưng không ai phủ nhận được giá trị những bài Đường Luật của ông trước đó. Ngoài ra, còn có Quách Tấn (với thi phẩm “Mùa Cổ Điển”), Vũ Hoàng Chương, Bùi Khánh Đản v.v… với bút pháp điêu luyện, tài tình.Căn bản của Đường Luật là phép đối ở hai cặp thực và luận. Nhiều người đã thất bại khi đối một cách máy móc, khiến cho bài thơ trở nên ngô nghê, vì trùng lặp ý tưởng ở hai cặp đối nói trên. Một bài thơ hay là một bài thơ trọn vẹn cả ý lẫn lời. Muốn thế, cần phải lập ý trước, rồi mới dùng lời (ngôn ngữ) để diễn đạt ý, do đó, điều quan trọng là cách sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ nghèo nàn thì ý sẽ trở nên rỗng tuếch; và ngược lại, ngôn ngữ có bay bướm thì ý mới trữ tình. Thơ Đường Luật của Nguyễn Vô Cùng ở trong trường hợp thứ hai.
Là một người lưu vong tị nạn Cộng Sản, tác giả đã ví thân phận của mình với thân phận của Thúy Kiều, vừa thoát khỏi ngục tù Cộng Sản, ra hải ngoại lại gặp những ma đầu chính trị :
Thoát nẻo thanh lâu bầy ác quỷ
Lạc vùng hắc điếm lũ ma yêu
(Vịnh Kiều – trang 116)
Khác hẳn với Lý Bạch trong thời gian lưu đày biệt xứ, lúc nhớ nhà chỉ biết uống rượu để quên đời – thì Nguyễn Vô Cùng dẫu ngậm ngùi chua chát trong cảnh lưu vong, nhưng vẫn mong một ngày tươi sáng cho đất nước khi quê hương thoát khỏi sự thống trị của Cộng Sản :
Ông chẳng nguôi ngoai sầu biệt xứ
Ta càng chua chát vị ly hương
Nhớ nhà, ông rót ngàn be rượu
Thương nước, ta chờ một ánh dương
(Gởi Lý Bạch – trang 56)
Những cặp đối này theo tôi – thật tuyệt !
Tâm trạng ấy của Nguyễn Vô Cùng là tâm trạng của một kẻ bất đắc dĩ phải rời khỏi quê hương do hoàn cảnh chính trị, bởi vì tác giả vẫn mong có một ngày trở về:
Rồi mai ta lại về quê cũ
Hát khúc đoàn viên ứa lệ vui
(Đốt Lên Ngọn Lửa – trang 64)
***
Chế độ chính trị nào rồi cũng lụi tàn, chỉ có quê hương (và dân tộc) mới trường cửu. Đọc “Vườn Xưa”, ta không chỉ bắt gặp một Quảng Trị của Nguyễn Vô Cùng, mà thấy cả hồn quê, hồn nước trong đó. Trước sự “lạm phát” của thơ hiện nay, “Vườn Xưa” là một thi phẩm có giá trị về kỹ thuật lẫn nghệ thuật, đồng thời thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, lập trường chính trị của tác giả – dù lời thơ mượt mà, nhẹ nhàng – nhưng vẫn không vì thế mà kém tính chiến đấu. Qua thi phẩm này, tác giả muốn gửi một “thông điệp” đến người đọc :
Đem câu thơ ủ tình dân tộc
Góp với quê hương cuộc chuyển mình
(Tình Thơ Đánh Giặc – trang 26)
Nguyễn Kinh Bắc
(Philadelphia)
@philadelphia