Phan Châu Trinh và Cuộc ly khai văn hóa Hán tộc
I.- Ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc
Ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc có thể chia thành hai thời kỳ: Thời kỳ 1000 năm Trung Quốc đô hộ cổ Việt và thời kỳ đất nước chúng ta độc lập từ năm 938 cho đến thế kỷ 20.
Trong một ngàn năm đô hộ, người Trung Quốc áp đặt nền văn hóa Hán tộc là chuyện bình thưòng. Tuy vậy, trong thời kỳ nầy người Trung Quốc chú trọng nhiều đến việc khai thác và bóc lột kinh tế hơn là việc phát triển văn hóa. Trung Quốc không tổ chức thi cử để tuyển lựa nhân tài địa phương cổ Việt, nên người Việt ít chú trọng đến việc học chữ Hán, vì học chẳng làm gì cả.
Trong thời kỳ độc lập, từ Ngô Quyền trở đi, các triều đình Việt sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức, dầu người Việt vẫn nói tiếng Việt. Nền văn hóa Hán tộc chẳng những tiếp tục được truyền bá, mà còn được truyền bá mạnh hơn, nhất là từ năm 1075, nhà Lý mở khoa thi tam trường đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Thi cử được các triều đại quân chủ tiếp tục tổ chức cho đến đầu thế kỷ 20.
Thi cử là phương pháp tuyển chọn nhân tài dân chủ, đồng thời thi cử là con đường duy nhất để ra làm quan, nên từ khi có thi cử Hán học ở nước ta, thì có nhiều người theo đuổi việc học chữ Hán và nền văn hóa Hán tộc để tiến thân. Chương trình thi cử chủ yếu là các bộ sách Nho học, cộng thêm lịch sử Trung Quốc và một ít lịch sử nước Nam.
Các bộ sách giáo khoa nho học là Tứ thư và Ngũ kinh. Tứ thư gồm Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ kinh gồm có Kinh thi, kinh thư, kinh lễ, Kinh dịch và Kinh Xuân thu. Xã hội Nho giáo dựa trên căn bản ba mối quan hệ căn bản trong đạo làm người (tam cương) là quân thần (vua tôi), phu phụ (chồng vợ) và phụ tử (cha con). Trong ba mối quan hệ nầy, thì đạo quân thần (vua tôi) là lớn nhất. Vua là trung tâm của mọi sinh hoạt xã hội, đứng đầu xã hội.
Chế độ quân chủ Hán tộc khác với chế độ quân chủ Tây phương ở chỗ trong nền quân chủ Hán tộc, vua là “con trời” (thiên tử), vừa nắm thế quyền, cai trị đất nước, vừa nắm thần quyền, phong chức thần linh. Ở Tây phương, vua chỉ nắm thế quyền. Thần quyền thuộc về giáo hội Ky-Tô.
II.- Phan Châu Trinh và Công cuộc ly khai văn hóa Hán tộc
Như đã trình bày, tuy các triều đại quân chủ dùng chữ Hán làm chuyển ngữ, nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt. Tiếng Việt là kỳ quan biểu tượng cho tinh thần độc lập của dân tộc Việt. Từ thế kỷ 17, khi đến truyền đạo tại Đại Việt, các giáo sĩ Ky-Tô giáo La Mã ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh, sáng chế một văn tự mới là Quốc ngữ. Lúc đầu, Quốc ngữ chỉ được truyền bá trong khuôn viên giáo đường. Khi người Pháp xâm chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ làm thuộc địa năm 1874, vì nhu cầu cai trị, người Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ. Trong thuộc địa Nam Kỳ, Pháp bãi bỏ hoàn toàn chữ Hán ngày 1-1-1882, chỉ sử dụng chữ Pháp và Quốc ngữ.
Bảo hộ Trung và Bắc Kỳ năm 1884, do chủ trương khai thác và bóc lột, Pháp giới hạn việc mở mang giáo dục tại vùng đất bảo hộ, chỉ lập một số trường Pháp cần thiết, dạy chữ Pháp để đào tạo lớp quan lại mới cho chế độ mới. Pháp vẫn để triều đình Huế duy trì thi cử Hán học ở Trung và Bắc Kỳ.
Trong hoàn cảnh đó, qua đầu thế kỷ 20, dầu đã đậu phó bảng Hán học năm 1901, khi dấn thân hoạt động duy tân để mở mang đất nước năm 1904, Phan Châu Trinh (1872-1926) đưa ra chủ trương “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”. Để mở đầu cuộc khai dân trí nhằm chấn dân khí và hậu dân sinh, đầu tiên Phan Châu Trinh vận động từ bỏ “cái học cũ”. Muốn từ bỏ “cái học cũ”, việc đầu tiên Phan Châu Trinh chủ trương là bãi bỏ việc học chữ Hán, và bãi bỏ việc dùng chữ Hán, đồng thời từ bỏ luôn thi cử Hán học.
Từ bỏ thi cử Hán học, tức từ bỏ việc học và truyền bá văn hóa Hán tộc. Lời kêu gọi sĩ tử không tham dự các kỳ thi Hán học hùng hồn nhất là bài “Chí thành thông thánh thi”, do Phan Châu Trinh viết và bài “Danh sơn lương ngọc phú” do Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng cùng viết năm 1905 tại Quy Nhơn.
Thay thế chữ Hán, ông kêu gọi sử dụng Quốc ngữ. Quốc ngữ gồm 24 chữ cái trong mẫu tự La-tinh, có thể dùng để lắp ghép tất cả các từ ngữ trong tiếng Việt, nên rất giản dị, dễ học, dễ viết, dễ sử dụng, dễ truyền bá văn hóa, tư tưởng, khoa học kỹ thuật. Tại Quảng Nam, Phan Châu Trinh cùng Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng và các trí thức cấp tiến vận động mở rất nhiều trường dạy Quốc ngữ ngay từ năm 1904. Trường Dục Thanh ở Phan Thiết và Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội đều do Phan Châu Trinh vận động thành lập. Bản thân Phan Châu Trinh cũng làm thơ, viết văn, viết báo bằng Quốc ngữ.
Cuộc vận động của Phan Châu Trinh bắt đầu từ 1904, mà cho đến năm 1919, Pháp mới bỏ các kỳ thi Hán học và cho đến gần cuối đời Phan Châu Trinh, chữ Quốc ngữ mới được chính thức phổ cập ở bậc tiểu học bằng nghị định ngày 18-9-1924 của toàn quyền Martial Merlin. Từ đây, Quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt và cũng từ đây xuất hiện nền văn học Quốc ngữ, những tác phẩm văn chương, học thuật, nghiên cứu Việt Nam….
Về xã hội, Phan Châu Trinh kêu gọi bãi bỏ những hủ tục trong văn hóa Hán tộc, bỏ thói để tóc dài (búi tó) theo kiểu người Trung Quốc, bỏ quan niệm thứ tự xã hội theo tứ dân, sĩ nông công thương, mà kêu gọi mọi người cùng nhau học những nghề kỹ thuật, học cách thức buôn bán theo kiểu tây phương.
Về chính trị, Phan Châu Trinh đả kích mạnh mẽ chế độ quân chủ “thiên tử” từ Trung Quốc truyền sang. Theo Phan Châu Trinh, chế độ quân chủ là một chế độ nhân trị. Ông giải thích: “Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay nghiêm khắc, chỉ huy tùy theo lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.” Do đó, nếu đất nước may mắn gặp một ông vua anh hùng, thì đất nước hưng thịnh, nhưng nếu đất nước không may mắn, gặp một ông vua hôn ám, thì đất nước suy sụp. Nói cách khác, chế độ quân chủ là một chế độ tùy hứng cá nhân người cai trị.
Thay vào đó, Phan Châu Trinh đề nghị thành lập chế độ dân chủ pháp trị, có hiến pháp, có quốc hội, có tổng thống và có quyền tư pháp độc lập. Theo ông, trong chế độ dân chủ pháp trị, “quyền lợi và bổn phận của mọi người trong nước đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi tự do, muốn bước tới bao nhiêu cũng không ai ngăn cản, chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền lợi của người khác thì không được. Vì đối với pháp luật thì mọi người đều bình đẳng, không có ai là quan, ai là dân cả.” (Phan Châu Trinh, “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.)
Một khái niệm mới được Phan Châu Trinh đưa vào sinh hoạt chính trị Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là ông đề xướng dân quyền. Theo ông, dân quyền sẽ là đầu tàu thúc đẩy tất cả những cải cách chính trị, kể cả việc đòi hỏi độc lập từ tay người Pháp vì ” dân đã biết có quyền thì việc khác có thể tính lần được.”
Như thế, trong 1000 năm Bắc thuộc, tổ tiên chúng ta đã bị Trung Quốc áp đạt nền văn hóa Hán tộc. Sau đó, tuy đất nước chúng ta độc lập về chính trị, nhưng lại lệ thuộc văn hóa Hán tộc vì trong gần một ngàn năm độc lập, các triều đại quân chủ chọn chữ Hán làm văn tự chính thức, đưa vào chương trình học thuật các sách vở Trung Quốc,và đã đào tạo tầng lớp trí thức theo văn hóa Hán tộc. Lớp trí thức nầy làm quan và điều hành xã hội cũng theo văn hóa Hán tộc.
Cho đến khi nền văn hóa Tây phương truyền vào nước Việt, Phan Châu Trinh và các nhà trí thức cấp tiến vào đầu thế kỷ 20 mới thấy rõ nền văn hóa Hán tộc là trở ngại chính cho sự tiến bộ của dân tộc. Do đó, các ông cương quyết kêu gọi từ bỏ chữ Hán, chấm dứt ý thức hệ quân chủ, dứt khoát ly khai với nền văn hóa Hán tộc, nhằm mở hướng đi mới, canh tân đất nước, tiến lên chế độ dân chủ.
Cuộc ly khai văn hóa Hán tộc do Phan Châu Trinh đề xướng là con đường thiết thực, mở rộng cánh cửa văn hóa cho sự phát triển đất nước. Nếu không có cuộc mở đường của Phan Châu Trinh, một mặt giới thủ cựu Việt Nam cố duy trì nền văn hóa Hán tộc nhằm duy trì quyền lợi, một mặt người Pháp tránh mở mang văn hóa, làm cho Việt Nam chậm tiến, để dễ bề thống trị, thì nước Việt chúng ta vốn đã chậm tiến, tiếp tục chậm tiến lâu ngày nữa. Có thể nói, quyết định ly khai văn hóa Hán tộc, chấm dứt việc học chữ Hán, văn hóa Hán, chế độ quân chủ kiểu Hán, đã lót đường cho các phong trào văn hóa, văn học và chính trị từ thời Phan Châu Trinh trở về sau.
Cần chú ý, ngày trước, tuy các triều đình sự dụng chữ Hán làm chuyển ngữ, nhưng các triều đình hoàn toàn độc lập với vua chúa Trung Quốc. Ngày nay, chữ Hán không còn được sử dụng, nước nhà tuy nói là hoàn toàn độc lập, nhưng giới lãnh đạo CSVN lại lệ thuộc nặng nề nhà cầm quyền CS Trung Quốc, dâng đất dâng biển cho CS Trung Quốc. Nếu chữ Hán vẫn còn được sử dụng, thì mức độ lệ thuộc chắc chắn còn mạnh mẽ nặng nề hơn nữa.
Như thế mới thấy viễn kiến sáng suốt của Phan Châu Trinh cách đây một trăm năm, phải dứt khoát ly khai khỏi văn hóa Hán tộc.
Trần Gia Phụng
(Trình bày trong Lễ Giỗ Phan Châu Trinh ngày 27-3-2011 tại Nam Cali)
@caidinh